Kỷ niệm 110 năm Ngày sinh của Võ Đại tướng , xin giới thiệu bài viết của CCB .ĐT
ĐẠI TƯỚNG CỦA LÒNG DÂN. MỘT VĨ NHÂN -
NÉT VĂN HOÁ THẮM ĐỎ TRONG HỒN CỐT DÂN TỘC.
Đ.T . CCB
Từ ngàn xưa, dân tộc
Việt Nam luôn có những bậc hiền tài vì dân, vì nước, đem về niềm tự hào cho Tổ
quốc, quê hương, khơi dậy niềm tin yêu trong lòng muôn thế hệ. Đại tướng Võ
Nguyên Giáp là một tấm gương tiêu biểu với những phẩm chất nổi bật siêu phàm. Bằng
trí tuệ tuyệt vời Người đã góp công dệt
nên trang sử vàng cho dân tộc. Bằng tâm hồn cao cả Người đã bắt nhịp yêu thương
cho muôn vạn đồng bào.
Những chiến công hiển hách của Người mãi
ghi dấu son cùng nhân loại, dân Việt kính yêu Người, thế giới ngưỡng mộ Người,
những kẻ từng bại trận dưới tay Người cũng nghiêng mình nể phục.
Triệu triệu con tim nồng thắm ngợi ca Người.
Thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau những câu chuyện tuyệt đẹp sáng tên Người.
Thơ, văn, nhạc, họa, hợp tấu, trường ca hùng tráng nhất về Người mà dẫu có những
ký âm lạc lõng xen ngang lại vô tình giúp bản giao hưởng thêm bổng vút, ngân
vang nhịp hùng tâm, tráng khí.
Mọi nẻo đường Người đi đều lưu dấu bao
chiến công vang dội, “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” cho ta tự hào, tin yêu ví Người với những
điều cao cả, thiêng liêng nhất.
Người là ngọn sóng cả oai hùng trên
trùng dương rộng lớn.
Là
cánh chim bằng mạnh mẽ của đại ngàn mênh mông.
Là mạch nước nguồn thanh khiết trong
lòng đất mẹ.
Là
đỉnh núi cao sừng sững giữa cuồng phong
Là
tia nắng, là ánh trăng, là vì sao kỳ diệu…
Trái tim nồng đượm, khối óc vĩ nhân, Người
đã làm nên huyền thoại lung linh tỏa ánh hào quang muôn đời rạng rỡ, soi sáng
vùng âm u, xua tan mùa băng giá cho hoa nở chim ca, cho Tổ quốc yêu thương nối
liền một dải, cho sông núi Việt Nam rạng ánh hòa bình.
Bút không tả hết, thơ không đủ lời và lòng
tôn kính mãi trào dâng trước nhân cách sáng ngời mang tên Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Vị tướng tài ba
Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25 tháng 8 năm 1911,ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho nghèo, thân phụ ông là Võ
Quang Nghiêm (Võ Nguyên
Thân), một nhà nho đức độ và thân mẫu là bà Nguyễn
Thị Kiên.
Luân bàn về
Đại tướng chúng ta có thể nói thêm tới
ông ngoại Võ Nguyên Giáp, quê ở thôn Mỹ Đức, xã Sơn Thủy, huyện Lệ Thủy, đầu nguồn sông
Cẩm Ly, một vùng sơn
cước, dưới dãy Trường Sơn; từng tham gia Phong trào Văn Thân và Phong trào Cần Vương, làm đến chức Đề đốc coi đại đồn tiền vệ,
sau bị quân Pháp bắt, tra tấn dã man, nhưng một mực trung thành, không một lời
khai báo.
Còn về họ nội, Võ Nguyên Giáp là một dòng
họ lớn, có tiếng tăm tại làng An Xá. Ông nội Đại tướng cũng từng tham gia phò
tá vua Hàm Nghi trong Phong trào Cần Vương. Cha ông, Võ Quang Nghiêm, là một nho sinh thi cử bất thành về nhà làm hương
sư và thầy thuốc Đông y trong làng. Khi chiến tranh Đông Dương bùng nổ, cụ Võ Quang Nghiêm bị giặc
Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù . Hiện nay, con cháu đã tìm thấy thi thể và bốc mộ Cụ đưa về an táng tại nghĩa
trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy.
Cơ
sở đó ta có thể thấy một cuộc đời từ thơ
ấu đã có nhiều yêu tố hun đúc lên trí nhân sáng ngời của Đại
tướng. Từ thời đi học cho tới lúc tiếp
cận chủ nghĩa Cách mạng và tới khi nghỉ hưu, thời gian đều là những mốc son lịch sử
đánh dấu sự hoạt động của Người. Học xong “Tam tự kinh , Ngũ Tự Kinh, Ấu
học tân thư” Chữ của Thánh hièn,Trong thế giới quan Nho giáo, cả ba yếu tố: cá nhân, gia đình và dân tộc đều hòa quyện chặt
chẽ với nhau. Sau đó ông được vào Huế học tiếp, Trong thời gian đi học tại
Huế Ông
có vài lần đến thăm nhà yêu nước Phan Bội Châu để nghe thuyết giảng về lý tưởng Cách mạng. Trên tường nhà Cụ Châu có treo
ảnh những nhà tư tưởng nổi bật mà cụ tôn kính là Tôn Dật Tiên, Vladimir Ilyich Lenin và Đức Phật Thích Ca, điều đó khiến Ông càng say mê theo đuổi
chân lý của lịch sử....
Tháng 4 năm 1927, tại Trường
Quốc học Huế diễn ra
một cuộc bãi khóa Ông bị đuổi học phải trở về quê
nhà và sau đó được một người bạn học mang tới tặng ông một tập tài liệu từ cuộc họp ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh
tụ Nguyễn Ái Quốc. Ông đọc rất xúc động: về Bài luận văn của Nguyễn Ái Quốc . Đó
là sợi dây đầu tiên nối liền số mệnh của Đại tướng với Hồ Chí Minh và sự nghiệp
Cách mạng Việt Nam.
Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Ông bị bắt và bị giam ở Nhà
lao Thừa phủ (Huế), cùng
với người vợ chưa cưới bà Nguyễn Thị Quang Thái, cùng với một số nhà hoạt động Cách mạng khác
Từ 1936 đến 1939, Đại tướng tham gia phong trào Mặt
trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy
ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng Pháp Notre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le
Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng.
Tháng 5 năm 1939, Ông nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Cụ Hoàng Minh Giám làm giám đốc . Học sinh của ông mô tả rằng:
ông có thể vẽ lên bảng đen sơ đồ từng trận đánh của Napoléon, ông sôi nổi . đầy nhiệt huyết .Và men nồng cho kiến thức
quân sự được dấy lên từ đó.
Ngày 3 tháng 5 năm 1940, Võ Nguyên Giáp với bí danh là Dương Hoài Nam cùng ông Phạm Văn Đồng lên Lào Cai rồi vượt biên sang Trung Quốc để gặp Hồ Chí Minh. Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tới năm 1941 đúng dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ, Ông cùng Bác
Hồ trở về Cao Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Bó, Hồ Chí Minh đã tiên đoán cách mạng sẽ thành
công vào năm 1945, một dự đoán chuẩn xác: "Trong 5 năm nữa (tính
từ 1941) cách mạng sẽ thành công, điều chúng ta mong đợi sẽ tỏa sáng".
Niềm tin sắt đá đó đã giúp Võ Nguyên Giáp và các đồng chí có thêm niềm tin vào
tương lai.
Đời sống ở Việt Bắc rất cực khổ, ông
kể: "Tìm được cái ăn đã là chiến công. Chúng tôi phải chia nhau
từng củ sắn, từng bắp ngô". Nhiều người bối rối dao động, có người e
ngại: làm sao Cách mạng thành công khi không có súng và lấy đâu ra súng? Những
lúc ấy, ông không bao giờ quên lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Chúng ta
sẽ dựa vào sức mình là chính cùng với một ít viện trợ từ nước ngoài. Mọi việc
đều do nhân dân mà nên. Người trước súng sau, có nhân dân là có tất cả.".
Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn
luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng. Trong thời gian này, Pháp tăng cường càn quét Việt Bắc, ai mang tài liệu Việt Minh sẽ bị bắn
ngay.
Ngày 22 tháng 12 năm 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, ông thành
lập đội Việt
Nam Tuyên truyền Giải phóng quân tại chiến
khu Trần Hưng Đạo với 34
người, được trang bị 2 súng
thập (một
loại súng ngắn), 17 súng trường, 14 súng kíp và 1 súng máy. Đây là tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân
Việt Nam. Đời binh nghiệp của
ông bắt đầu từ mốc son lịch sử này.
Ngày 25 tháng 12 năm 1944, Võ Nguyên Giáp đã
chỉ huy đội quân này lập chiến công đầu tiên là tập kích diệt gọn hai đồn Phai
Khắt và Nà Ngần
Ngày 14 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp
trở thành uỷ viên Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, sau đó là
ủy viên Thường vụ Trung ương, tham gia Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc.
Cách mạng Tháng Tám thành công Ông được
cử làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (nay gọi là Thứ trưởng) Bộ Quốc
phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng
chỉ huy Quân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ.
Trong Chính phủ Liên hiệp, ông là Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng cho đến tháng 7 năm 1947 và từ tháng 7 năm 1948 trở đi đến
cuối đời ông gắn liền với sự mạng binh nghiệp.
Và cũng
trong năm 1946, ông tái kết hôn với bà Đặng Bích Hà con gái giáo sư Đặng
Thai Mai , phu nhân của Đại tướng tới ngày nay.
Những ngày Chính phủ Việt Nam Dân chủ
cộng hoà còn trong trứng nước ông cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh với Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến tiếp tục
thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam
dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia,
thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục..
Ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chiến tranh Đông Dương chính thức bùng nổ. Dưới sự lãnh
đạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản, ông bắt đầu chỉ
đạo cuộc đấu tranh vũ trang kéo dài 9 năm chống lại sự tái chiếm Việt Nam của
quân Pháp (1945-1954) trên cương vị Tổng chỉ huy và Tổng Chính ủy, từ năm 1949 đổi tên gọi làTổng tư lệnh quân đội kiêm Bí thư Tổng Quân uỷ.
Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự
nào trước đó, không phải trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ
Nguyên Giáp được phong quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948,
cùng với 10 vị tướng khác. Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân đội
Nhân dân Việt Nam khi tròn 37
tuổi.
Từ tháng 8 năm 1945 Đại tướng là một trong 5 ủy
viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động
Việt Nam từ năm 1951. Như các danh tướng Việt
Nam trong lịch sử, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chú trọng nghệ thuật lấy ít địch
nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng
của ông có tên gọi là “Chiến tranh nhân dân” kế thừa quan điểm quân sự
Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc của tổ tiên, tri thức quân sự thế
giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được
liên tục cập nhật trong nhiều cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ.
Điều nổi bật trong tư tưởng chỉ đạo quân sự
của ông là học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn, đồng
thời luôn nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải
ghi nhớ việc tiết kiệm sinh mạng bộ đội bởi
Việt Nam là nước nhỏ .
Mốc son năm 1954,
Đai tướng Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng
trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện
Biên Phủ. Trước khi ra
trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ
được thắng không được thua vì thua là hết vốn". Sau 56 ngày đêm, đội quân nhà nghề được trang
bị hiện đại của Liên hiệp Pháp bị đánh bại. Chiến thắng này đã đặt
dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại Đông Dương sau 83 năm, và đã đưa
Đại tướng đi vào lịch sử thế giới như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một
người hùng của các nước Thế giới thứ ba đang bị thực dân châu Âu đô hộ.
Những người dân ở các nước thuộc địa đã xem
Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp là thần tượng để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng
mình.
Chiến thắng lịch sử Điên Biên Phủ trên
không năm 1972 một lần nữa khẳng định
vai trò cầm quân của Đại tướng . Hầm chỉ
huy trong Hoàng thành Thăng Long đã toả sáng và cùng với chiến trường miền Nam
buộc Mỹ phải ký kết rút hết quân đội về nước kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược
tàn bạo nhất trong lich sử chiến tranh thế giới.
Và cho tới chiến dịch Hồ Chí Minh, vị Tổng tư
lệnh với tư tưởng chi đạo ” Thàn tốc,
thần tốc hơn nữa. Táo bạo , táo bạo hơn nữa” đã góp phần làm nên trang sử vẻ vang thống nhất đất nước. Suốt
một đời làm tướng ông nói ” Hạnh phúc lớn nhất của người cầm quân là được bên
chiến sĩ trên chiến trường”. Khi báo chí phương Tây ca tụng về mình ông đã tâm
sự “ Vị tướng đã có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt nước trong biển cả.
Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các ngàì gọi tôi là vị tướng
thần thoại nhưng tôi tự nghĩ, tôi bình đẳng với những người lính của mình”...
Khi Đại tướng bước vào mùa xuân thứ 100 nét son đỏ thắm trong cuộc đời của Đại
tướng là lới bộc bạch từ trái tim Người “Tôi
sống ngày nào là vì đất nước ngày đó . Mong Đảng và chính phủ ghi nhớ công lao
của những chiến sĩ cách mạng. Có đất nước như ngày hôm nay cũng là nhờ xương
máu hy sinh của các chiến sĩ trong hai cuộc kháng chiến”.
Mùa thu 2013
mãi để lại dấu ấn không phai trong phần lớn con tim người Việt khi Đại tướng Võ
Nguyên Giáp, người con ưu tú của Dân tộc trút hơi thở cuối cùng.
Từ lúc tin Đại tướng từ trần
loan truyền trên mọi phương tiện truyền thông cho tới khi Người ngủ yên trong
lòng đất mẹ Quảng Binh đã đọng lại bao điều đủ lay động những tâm hồn vô cảm nhất.
Những cựu chiến binh đau đáu nỗi niềm hằn trên nét mặt. Vẻ trầm tư hiện rõ
trong ánh nhìn muôn người già trẻ , gái
trai và thay cho nụ cười tỏa thắm trên môi là vô vàn tiếng nức nở tiếc thương
hòa dưới khung trời ảm đạm mưa tuôn.
Từ chiến khu
Việt Bắc bao la xuống Thủ đô sầm uất, từ
eo đất miền Trung vào phương Nam nồng đượm, từ dãy Trường Sơn trùng điệp đến
Tây Nguyên hùng vĩ, từ miền Đông rộng lớn
sang biển đảo mênh mông, xúc động trào dâng, mộc mạc khó tỏ bày.
Những đoàn người khắp nơi
đổ về số nhà 30 Hoàng Diệu.Những nhành hoa rừng được đồng bào Mường Phăng dâng
lên anh linh Người trong căn lán nhỏ ở Điện Biên. Những người lính Trường Sa kết
lá dừa làm vòng hoa viếng Người ngoài hải đảo. Những đoàn người đứng lặng trong mưa đón linh cữu
Người ở Vũng Chùa , đảo Yến Quảng Bình.
Những đồng bào dân tộc ít người tập trung
thành nhóm lớn, nhỏ kéo nhau về Hà Nội. Những cậu sinh viên từ thành phố Hồ Chí
Minh đạp xe vượt chặng đường 1300 km, gom từng nắm đất trên mỗi tỉnh thành mình
qua để đắp lên mộ Người và rất rất nhiều điều không bao giờ kể hết.
Nước mắt đẫm muôn nơi, người già khóc, trẻ em
khóc, bạn khóc, tôi khóc và trời cũng khóc trước nỗi đau thương khó tả trọn bằng
lời.
Muôn sắc hoa, triệu vần thơ, bao dòng chữ nối dài như vô tận cho ta nhận
ra lẽ diệu kỳ được làm nên từ sâu thẳm tin yêu, sự diệu kỳ hiển hiện qua những
điều giản dị mà vô cùng đẹp đẽ. Mọi người như xích lại gần nhau hơn, biết nhường
nhịn sẻ chia và yêu thương hơn bởi có chung một niềm đồng cảm, chung một niềm mất
mát lớn lao không bù đắp nổi dẫu là gì.
Hòa trong niềm tiếc thương vô hạn là lòng kính
yêu của triệu triệu người dân dành cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp không vơi.
Vĩnh biệt Người – Vị tướng của lòng dân!
Có những điều thắm nồng
theo năm tháng, còn mãi với thời gian, ấy là những điều tốt đẹp nhất đã hằn sâu
vào tâm thức mỗi người, vào bề dày văn hoá dân tộc mà ta thành kính gọi tên: Bất
Tử!
Cuối thu 2018