MỘT
BÀI THƠ CÓ THỂ BIẾN THÀNH
1728
BÀI THƠ KHÁC
Trần Hạnh Nguyên
Hội viên Hội Kiều học Việt Nam
Chi hội Thơ Đường luật Từ Sơn – Bắc Ninh
Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Đức Dân cho biết:
Ông Phạm Đan Quế người giữ ba kỷ lục về Truyện Kiều, đã sáng tác bài thơ Đường
“Thất ngôn Bát cú” (Kiều nương cửa Phật) nói về tâm sự của Thúy Kiều khi đi tu
tại Am Thúy Vân bên bờ sông Từ Đường như sau:
KIỀU NƯƠNG CỬA PHẬT
Ngần
ngại đổ chuông chùa nguyện cầu
Sắc
hương vàng nắng ngả nơi mau
Vần
xoay gió bão đầy năm tháng
Lỗi
nhịp Kiều đời trắng bể dâu
Nhân
ái cảnh thiền sai ước thê
Mộng
tình Kim ấp ủ còn đâu
Dần
xa dõi bóng Từ oan khuất
Nhân
nghĩa Phật Tiên chốn nhiệm màu
Phạm Đan Quế
1. Về phương diện hình thức: Trong bài có rất nhiều từ ngữ ghép đôi đẳng cấp khiến mỗi
dòng thơ có thể đọc xuôi hoặc đọc ngược một cách thoải mái tự nhiên.
*
Ví dụ: Ở câu 6:
-
Mộng tình Kim ấp ủ còn đâu
+
Đọc ngược câu thơ trên ta có:
-
Đâu còn ủ ấp Kim tình mộng
+ Đọc ngược cả bài ta có:
8 – Màu nhiệm chốn Tiên Phật nghĩa nhân
7 – Khuất
oan từ bóng dõi xa dần
6 – Đâu
còn ủ ấp Kim tình mộng
5 – Thề ước sai thiền cảnh ái nhân
4 – Dâu bể trắng đời Kiều nhịp lỗi
3 – Tháng
năm đầy bão gió xoay vần
2 – Mau rời ngả nắng vàng hương sắc
1 – Cầu nguyện Chùa chuông đổ ngại
ngần
*
Chúng ta chú ý đến những tiếng đầu câu vần bằng:
1,3,5,7,8 (ngần, vần, nhân, dần, nhân).
*
Những tiếng cuối câu có vần bằng: 1,2,4,6,8 (cầu, mau,
dâu, đâu, màu) khiến tai ta dễ dàng thay đổi trật tự các câu thơ làm thành một
bài Thất ngôn Bát cú mới có nội dung rất ý nghĩa:
Thí
dụ: Ta chuyển thành câu theo thứ tự:
5,3,1,4,2,7,8,6:
5
– Nhân ái canh thiền sai ước thề
3
– Vần xoay gió bão đầy năm tháng
1
– Ngần ngại đổ chuông Chùa nguyện cầu
4
– Lỗi nhịp Kiều đời trắng về đâu
2
– Sắc hương vàng nắng ngả rơi mau
7
– Dần xa dõi bóng từ oan khuất
8
– Nhân nghĩa Phật tiên chốn nhiệm màu
6
– Mộng tình Kim ấp ủ còn đâu
*
Mặt khác ta có thể cắt bớt hai tiếng đầu câu (khi đọc xuôi) để bài Thất ngôn
Bát cú thành bài Ngũ ngôn Bát cú:
1
– Đổ chuông Chùa nguyện cầu
2
– Vàng nắng ngả rơi mau
3
– Gió bão đầy năm tháng
4
– Kiều đời trắng bể dâu
5
– Cảnh Thiền sai ước thề
6
– Kim ấp ủ còn đâu
7
– Dõi bóng từ oan khuất
8
– Phật Tiên chốn nhiệm màu
*
Cắt bớt hai tiếng cuối câu thành bài Ngũ ngôn Bát cú (đọc ngược):
8
– Chốn Tiên Phật nghĩa nhân
7
– Từ bóng dõi xa dần
6
- Ủ ấp Kiều tình mộng
5
– Xa thiền cảnh ái nhân
4
– Trắng đời Kiều nhịp lỗi
3
– Đầy bão gió vần xoay
2
– Ngả nắng vàng hương sắc
1
– Chùa chuông đổ ngại ngần
Mỗi câu thơ đều có thể tồn tại độc lập
và cũng là tâm sự của Kiều khi tu hành ở Am Vân Thúy.
Ta có thể đổi chỗ (hoán vị) các câu thơ
mà bài thơ vẫn chấp nhận được bằng cách đổi chỗ các dòng thơ khi đọc xuôi hay đọc
ngược; hoặc bỏ bớt (hai tiếng đầu) hay (hai tiếng cuối) để (đọc xuôi) hay (đọc
ngược).
Theo tác giả bài thơ trên có ít nhất
1.728 cách đọc Thất ngôn Bát cú hoặc Ngũ ngôn Bát cú. Trong đó ít nhất có 32
bài đúng niệm luật Thơ Đường.
* Thơ
đọc xôi:
Bắt đầu bằng hai câu 1 – 2; 1 – 6 hoặc 8
– 2…
Ta có thể làm thành các bài thơ trình tự:
- 1 2 3 4 5 6 7 8; 1 2 7 4 5 6 3 8; 1 2 7 8 5 6 3 4.
- 1 6 3 4 5 2 7 8; 1 6 3 8 5 2 7 4; 1 6 7 4 5 2 3 8; 1 6 7 8 5 2 3 4.
- 8 2 3 1 5 6 7 4; 8 2 3 4 5 6 7 1; 8 2 7 1 5 6 3 4; 8 2 7 4 5 6 3 1.
….
Chẳng
hạn bạn có thể sáng tác bài thơ đọc xuôi theo trật tự:
1 2 34 8 5 6 7 4:
1 – Ngần ngại đổ chuông Chùa nguyện
cầu
2 – Sắc hương vàng nắng ngả rơi mau
3 – Vần xoay gió bão đầy năm
tháng
8 – Nhân nghĩa Phật Tiên chốn nhiệm màu
5 – Nhân ái cảnh thiền sai ước
thề
6 – Mộng tình Kim ấp ủ còn
đâu
7 – Dần xa dõi bóng từ oan
khuất
4 - Lỗi nhịp Kiều đời trắng bể
dâu
Cũng vậy bạn có thể tạo ra các bài thơ mở
đầu bằng các dòng:
8 3………….; 8 7…………..; 4 7……………….
5 3…………..;
2.
Về phương diện nội dung: Ba tiếng giữa trong các
dòng thơ nhắc tới ba nhân vật trung tâm:
- (Thúy Kiều, Kim Trọng và Từ Hải) cùng
các điểm căn bản trong đời tu hành của Kiều.
- (Chuông Chùa, vàng nắng, gió bão, cảnh
thiền, Phật Tiên). Nên khi ta cắt bớt hai tiếng đầu hoặc hai tiếng cuối (của mỗi
câu); những điều còn lại khiến bài thơ Ngũ ngôn vẫn giữ được ý nghĩa cơ bản như
bài Thất ngôn. Hệ quả là cả 1.782 bài thơ gần như có cùng nội dung như ta mong
muốn.
*
Ngoài ba câu: +
Nói về Kiều (câu 4)
+
Nói về Kim Trọng (câu 6)
+
Nói về Từ Hải (câu 7)
Năm câu còn lại đều nói lên tâm trạng của
Kiều khi nương cửa Phật. Trong bài có bốn cặp câu lần lượt nói về:
-
Kiều cầu nguyện (câu 1 – 2)
-
Kiều ngẫm lại cuộc đời bão tố (câu 3 – 4)
-
Kiều tưởng nhớ mối tình lối hẹn với Kim Trọng (câu 5 – 6)
-
Kiềm dõi theo bóng Từ Hải chết oan vì mình (câu 7 – 8)
Khi đổi chỗ các dòng thơ, những điều căn
bản nói trên vẫn hiện nguyên nội dung đầy đủ.
Mời các bạn dạo chơi trong vườn thơ đọc xuôi, đọc ngược, của “Kiều nương của Phật” để thấy được sự
độc đáo, diệu kỳ của Tiếng Việt và tài thơ Việt Nam.
T.H.N
ĐT: 0335.656.512