BÌNH THƠ
ĐẾN VỚI BÀI THƠ
HỒ CHÍ
MINH
Của tác giả Trần Văn Cường
Kim Liên thánh địa
nẩy nhân tài
Cổ học trau dồi
thỏa chí trai
Anh dũng tự do
bình đẳng phát
Hùng hồn dân chủ
cộng hòa khai
Duy trì nước Việt
xây thành lũy
Chỉ dẫn dân Nam
dựng võ đài
Một đấng minh quân
ngời nhật nguyệt
Á - Âu hào kiệt
sánh không hai.
Văn Cường
Lời bình của Anh Tiến:
Nói về Hồ Chí
Minh, đã có hàng ngàn hàng vạn bài thơ, bài luận, bài văn ca ngợi Người. ở bât
cứ hoàn cảnh nào, điều kiện nào, Người cũng luôn luôn là kim chỉ nam, là nguồn
sáng bất tận, càng viết càng say. Để tìm được một lấp lánh mới, một long lanh
mới là một việc cực kỳ khó khăn của các nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận phê bình.
ở bài thơ “Hồ Chí Minh” của Văn Cường, tôi đã bắt gặp sự lấp lánh đó.
Kim Liên thánh địa
nẩy nhân tài
Cổ học trau dồi
thỏa chí trai
Thì đấy. Bác Hồ
quê ở Kim Liên, ở làng Sen. Thân phụ Bác
là ông quan, rồi làm ông đồ, rồi làm ông lang… ai chả biết. Thân mẫu Bác là
người tề gia nội trợ, canh cửi tầm tang… Tất cả những sự kiện đó đều đã được
khai thác. Nhiều bài thơ, câu hát, bài văn đã từng là chuẩn mực như: “Có một
người con trung hiếu”, “Tháp Mười đẹp nhất hoa sen, Việt Nam đẹp nhất có tên
Bác Hồ”.
Nhưng bài thơ của
Văn Cường, tôi lại thấy thích nhất là danh từ “thánh địa” và động từ “nẩy” ở
trong câu “Kim Liên thánh địa nẩy nhân tài”. Đây là một ý tưởng
mới rất táo bạo. Nhưng do đặt đúng chỗ nên nó trở thành đắc địa, nó nâng bổng
câu thơ để đi sâu vào thấm thía của người đọc, không cảm thấy gân cốt gượng
gạo, nài ép. Viết về lịch sử, về những con người của lịch sử là một việc rất
khó. Chỉ cần một chút nông cạn ta sẽ trở thành “lố”, bài thơ của ta sẽ không
thỏa mãn sự thưởng thức của bạn đọc.
Đến
câu “Anh dũng tự do bình đẳng phát; Hùng hồn dân chủ cộng hòa khai”. Ai cũng
nghĩ rằng tác giả đang ca ngợi Hồ Chí Minh. Nhưng theo sự nông cạn nghĩ của
tôi, tác giả đã vô cùng khéo léo, lồng ghép ý tưởng sâu xa của mình vào việc ca
ngợi một con người thành ca ngợi mọi người. Ca ngợi Bác Hồ là “anh dũng”, là
“hùng hồn”. Khi ta đọc đến hai từ tiếp theo: “Anh dũng tự do …”, “Hùng hồn dân
chủ …” thì ngoài sự ca ngợi lãnh tụ là Bác Hồ, tác giả đã khéo léo ca ngợi mỗi
chúng ta, cả dân tộc ta. Càng đọc càng ngẫm nghĩ, chúng ta càng thấy câu thơ
long lanh ý tưởng của tự do dân chủ, của cộng hòa bác ái, của con người hạnh
phúc, của dân tộc tự cường. Bằng biện pháp tu từ, đảo ngữ, tác giả đã cho ta
cách đi vào lòng người hết sức mới mẻ, hồn nhiên, tránh được lối mòn xưa cũ cứ
phải bắt đầu rồi kết thúc sao cho suôn sẻ.
Cũng
với cách hành văn và tư duy tu từ như vậy, hai câu luận của tác giả cũng mang
lại hiệu ứng cảm xúc thật sâu sắc. Thay vì dùng thuận “chúng ta phải xây dựng
thành lũy vững chắc để duy trì sức mạnh và ổn định”, tác giả lại đảo ngữ để câu
thơ vừa có sức mạnh, vừa thanh thoát, ngọt ngào: “Duy trì nước Việt xây thành
lũy - Chỉ dẫn dân Nam dựng võ đài”. Mỗi bài thơ hay, không chỉ cần có ý tứ sâu
sắc mà mỗi ngôn từ cũng cần chọn lọc, cân nhắc, sao cho đủ, đọc lên không gân
guốc mà có sức nặng ngàn cân.
Hai
câu kết thực sự là hai câu tỏa sáng:
Một
đấng minh quân ngời nhật nguyệt
Á - Âu hào kiệt
sánh không hai.
Văn Cường vốn là
nhà thơ giàu ý, kiệm lời. Bài “Hồ Chí Minh” thực sự là viên ngọc sáng. Khuôn
khổ bài viết không cho phép nên tôi cũng chỉ dám lướt qua như “cưỡi ngựa xem
hoa” thôi. Mong rằng những tinh hoa như thế này ngày càng nở rộ trên thi phẩm
của chúng ta. Chúc
tác giả ngày càng sung mãn.
Anh Tiến- Từ Liêm