Trong một số trường hợp, xuất hiện những ý kiến
đánh giá trái chiều về một bài thơ ngũ độ thanh nào đó, lý do chủ yếu là vì có
những quan điểm khác nhau về luật chơi thơ này.
Vậy thơ "Ngũ độ thanh" xuất phát từ
đâu?
"Từ
điển tiếng Việt" định nghĩa: "Thanh là nói tắt của thanh điệu".
Trong tiếng Việt của chúng ta có 6 thanh (2
thanh bằng, 4 thanh trắc). Vì thế, trong một câu thơ thất ngôn, nhiều nhất gồm
6 thanh khác nhau. Trong một câu thơ luật Đường ngũ độ thanh có thể gồm 6 thanh
hoặc 5 thanh khác nhau, ít nhất phải có 5 thanh. Có lẽ vì thế, người ta mới gọi
là thơ "Ngũ độ thanh".
Mọi
luật chơi đều do con người đặt ra. Đặc biệt, thơ "Ngũ độ thanh" chỉ
có trong tiếng Việt, cho nên điều chắc chắn luật đó là do người Việt chúng ta
đặt ra.
Người Trung Hoa sản
sinh ra thơ luật Đường (thơ cách luật), nhưng người Việt Nam không những duy
trì thể thơ này cho đến ngày nay, mà còn phát triển và tạo ra nhiều kiểu chơi
độc đáo, tinh tế, có nhạc điệu cao.
Một trong những khác
biệt của tiếng Việt so với tiếng Trung Quốc để tăng thêm nhạc điệu của bài thơ
là trong tiếng Việt có 6 thanh, còn tiếng phổ thông Trung Quốc chỉ có 4 thanh
(bình, thượng, khứ, nhập).
Trong
tiếng Việt, có 2 thanh bằng là thanh không (không dấu) và thanh huyền (dấu
huyền), 4 thanh trắc là sắc, hỏi, ngã, nặng. Khi chúng ta ngâm thơ, nhiều người
nước ngoài nói là người Việt Nam "hát thơ".
Thơ
"Ngũ độ thanh" phát huy cao độ tính nhạc điệu của tiếng Việt.
Hiện
có các quan điểm khác nhau sau đây về luật thơ "Ngũ độ thanh":
1. Quan điểm thứ
nhất: Một số người chơi cho rằng, cứ có đủ 5 thanh khác nhau trong một câu thơ
là được, những quy định khác có thể bỏ qua, ví dụ, có thể áp dụng "Nhất,
tam, ngũ bất luận", hay không nhất thiết hai từ thanh bằng liền kề phải
khác dấu, hoặc trong một câu có hai từ thanh trắc cùng dấu cũng không sao, miễn
có đủ 5 thanh là thành thơ "Ngũ độ thanh" rồi. Đó là một quan điểm.
2. Quan điểm
"chính thống", được phần lớn người chơi thơ chấp nhận là:
- Trong một bài thơ
"Ngũ độ thanh", luật bằng trắc phải tuyệt đối phân minh, không có bất
luận. Không được áp dụng "Nhất tam ngũ bất luận" trong thơ "Ngũ
độ thanh".
- Trong mỗi câu thơ,
những thanh bằng liền kề nhau không được trùng dấu (phải là một từ thanh không
và một từ thanh huyền liền kề).
- Trong một câu, các
thanh trắc không được lặp lại dấu.
Tóm lại, trong một
câu thơ, ít nhất phải có 5 thanh khác nhau (ngũ độ thanh). Nếu câu có 3 từ
thanh bằng (gồm 2 thanh điệu khác dấu), thì 4 từ thanh trắc phải là 4 dấu sắc,
hỏi, ngã, nặng khác nhau (tổng cộng có 6 thanh độ); còn câu có 4 từ thanh bằng
(gồm 2 thanh khác dấu), thì 3 từ thanh trắc cũng khác dấu nhau (có 5 thanh độ)
và các từ thanh bằng liền kề không được trùng dấu.
3. Điều chắc chắn là, khi đã
tuân thủ quan điểm "chính thống" nêu trên, thì sẽ không phạm vào lỗi
điệp thanh, khổ độc. Nhưng có lúc vẫn mắc phải những lỗi (bệnh) khác, như phong
yêu, hạc tất, bàng nữu, chánh nữu, bình đầu... Mặt khác, khi sáng tác một bài
ngũ độ thanh, (cũng như một bài thuận nghịch độc, khóan thủ, khoán tâm, tung
hoành trục khoán của thơ luật Đương, hay thơ biến thể "lục bát tám
câu",...), do phải tuân thủ luật chơi mà đôi khi câu thơ không được thanh
thoát như một bài thất ngôn bát cú hay một bài lục bát bình thường nhưng mượt
mà. Tránh được những lỗi đó thì thơ càng hay, càng dễ đọc, tính nhạc điệu càng
cao. Chính vì vậy mà còn có quan điểm thứ ba, khắt khe hơn. Cụ thể là không
được phạm vào các lỗi (bệnh) khó nghe; vần bằng của các câu trong bài phải liên
tục đổi dấu (một câu có vần thanh huyền, một câu có vần thanh không và ngược
lại), trừ bài độc vận; và phải dùng chính vận; các đuôi thanh trắc cũng khác
dấu nhau (xin xem ví dụ dưới đây). Khi đó bài ngũ độ thanh mới thật hoàn hảo.
Nhưng, xin nhắc lại là đa số người chơi chấp nhận quan điểm thứ hai nêu trên.
Sau đây xin giới
thiệu một vài bài thơ làm ví dụ:
Bài
thơ dưới đây vừa là "Ngũ độ thanh", vừa là "Bát vĩ đồng
âm". Về nội dung, bài thơ không tả thực, mà mượn việc phác cảnh đầu xuân
để nói về đời.
TẢN BỘ ĐẦU XUÂN
(Thơ họa. Ngũ độ thanh, bát
vĩ đồng âm)
Xuân
về tản bộ ngắm Hồ Tây,
Ngưỡng
cảnh đào phai, bích lượn đầy.
Thoải
mái tìm quanh, nào bãi sậy,
Mơ
màng ngó ngược, cả trời mây.
Bèo
loang có lẽ do người đẩy,
Nước
vẩn vì chưng sẵn bọn vầy.
Tụi trẻ nô đùa vung
nón vẫy,
Nhà
thơ ngẫm ngợi đứng đờ ngây.
ĐNH
Ví
dụ trên không những tuân thủ mọi tiêu chí của quan điểm "chính
thống", mà các vần thanh bằng còn liên tục đổi dấu (Tây, đầy, mây, vầy, ngây)
và các duôi thanh trắc cũng khác dấu nhau (sậy, đẩy, vẫy):
Ví dụ dưới đây là một bài ngũ độ thanh, độc vận:
KHÔN
DẠI
(Ngũ độ thanh, độc vận)
Lòng tham muốn mãi trở thành khôn,
Lắm của quyền to đã được khôn.
Nhét đẫy đầy bao thì chẳng dại,
Vơ phồng chặt túi hẳn là khôn.
Tiền công thoải mái chi nào dại,
Đất phật tùy cơ xẻo vẫn khôn.
Cũng phải khuyên người khôn phát dại,
Cần mau giác ngộ để mà khôn.
ĐNH
Sau
đây xin giới thiệu bài thơ ngũ độ thanh của tác giả Nguyễn Thị Thực (Hương Sơn,
Hà Tĩnh):
DÒNG
SÔNG THU (Ngũ độ thanh)
Thu về nắng lụa trải dòng
sông
Một cõi lòng ai cảnh sắc
hồng
Đẹp mãi thân rồng trên xứ sở
Tươi hoài phượng vĩ dưới
tầng không
Câu hò mái đẩy trao tình
đượm
Giọng hát đò đưa trả nghĩa
nồng
Giữa
thảm trời xanh vàng ánh nguyệt
Ghe, thuyền cập bến thỏa niềm trông
NTT
Khi một bài thất ngôn bát cú được chú thích
là "thơ ngũ độ thanh", thường gây sự chú ý và có khi trở thành chuyện
nhạy cảm, thế nào cũng có người "soi" từng câu, từng chữ xem có chỗ
nào sai luật chơi không.
Nếu gặp một bài thơ mà tác
giả cho là "ngũ độ thanh", nhưng không hoàn toàn theo quan điểm
"chính thống" hay quan điểm thứ ba nêu trên, thì chưa hẳn là tác giả
không biết luật. Luật chơi là do con người nghĩ ra và theo quan niệm của từng
người. Đương nhiên, bài thơ tuân theo quan điểm thứ 2 (quan điểm "chính
thống") và đặc biệt là quan điểm thứ 3 nêu trên, thì có giá trị hơn,
"bác học" hơn, mượt mà hơn, tính nhạc điệu cao hơn, được tôn trọng
hơn.
Mặt khác, theo kinh nghiệm
của tôi, thì một số tác giả nắm rất chắc luật chơi, nhưng khi sáng tác không
tập trung, chỉ đọc lướt qua, thậm chí có khi đọc đi đọc lại vẫn không tập
trung, không tự nhận ra là mình bị mắc lỗi, có người khác chỉ cho mới
"à!". Lỗi thường gặp nhất là lặp lại 2 từ thanh trắc cùng dấu trong
một câu có 4 từ thanh trắc.
Chưa nói đến thơ ngũ độ
thanh, mà khi sáng tác một bài thơ luật Đường bình thường, cũng phải hết sức
tập trung, nếu lơ đãng thì bất cứ ai cũng có thể bị sai luật, như thất niêm
chẳng hạn, đặc biệt rất hay mắc lỗi ở từ thứ 6 trong câu bát cú.
TS. Đinh Nho Hồng
CLB. Nguyễn Trãi