Hiện nay có khá nhiều người làm thơ Đường luật. Hội Thơ Đường luật Việt Nam có 77 chi hội trong cả nước, co trên 3000 hội viên .Câu lạc bộ thơ Đường thành phố Hà Nội gần 300 hội viên .Hội Thơ Đường luật Việt Nam cũng đã tổ chức được các ngày hội thơp Đường luật toàn quốc, in những tập thơ “ Thơ Đường luật Việt Nam” do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành,với gần 1500 trang thơ, của các chi nhánh hội thơ trong cả nước. Thơ Đường Hà Nội đã có tơi 5 thi phẩm thơ Đường .Trên cư dân mạng đã có 2 websiter Thơ Đường thuần klhiết . Ở hải ngoại, phong trào làm thơ Đường luật cũng sôi nổi. Hà Đình Huy cho biết :” Ở Pháp nhóm Bảo Tồn Văn Hoá Việt chủ trương sưu tầm lại các thi phẩm cổ, mà phần lớn là những bài thơ Đường Luật của các danh nhân Trung Hoa cũng như Việt Nam. Những bài thơ của các thi hào Lý Bạch, Đỗ Phủ, Lê Thánh Tông, được nhóm trân quý và cho in thành sách. Phong trào làm sống lại thơ Đường mạnh nhất là nhóm của các thi sĩ Thiên Tâm, Đông Thiên Triết, Trường Giang…, trong hội “Thi Văn Đàn Bốn Phương” ở miền Bắc tiểu bang California Hoa kỳ…
Do đâu thơ Đường luật được nhiều người quan tâm, sáng tác và bảo tồn ? và do đâu, dù có nhiều người sáng tác thơ Đường luật, nhưng chưa có nhà thơ hay bài thơ Đường luật nào ghi được dấu ấn trong dòng thơ Việt đương đại ? Phải chăng làm thơ Đường luật ngày nay chỉ như một thú chơi đồ cổ của một thế hệ người làm thơ đã thuộc thời quá vãng ?
1.Cái thú của người chơi thơ Đường luật
Người làm thơ Đường luật hẳn nhiên là người yêu thơ Đường và cảm nhận được cái hay của thơ Đường. Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Giả Đảo, Vương Bột, Vương Duy, Thôi Hộ, Thôi Hiệu, Liễu Tông Nguyên, Trương Kế, Vương Xương Linh, Lạc Tân Vương …đã để lại những tuyệt tác cho hậu thế mà bất cứ ai đọc thơ Đường không thể không ngưỡng phục.Các nhà thơ Đường hầu như đã khai thác mọi đề tài, kể cả tình dục họ đã khám phá được những tứ thơ độc đáo, diễn tả được mọi khía cạnh của tâm hồn bằng vẻ đẹp của một kiểu tư duy thơ thiên về trí tuệ. Cái hay của thơ Đường là ở tứ thơ, ở kiểu ngôn ngữ hàm xúc và ở vẻ đẹp của tư tưởng. Xin đọc :
Giang Tuyết
Thiên sơn điểu phi tuyệt
Vạn kính nhân tung diệt
Cô chu toa lạp ông
Độc điếu hàn giang tuyết
Liễu Tông Nguyên
(Nghĩa : Trên nghìn núi chim bay hết/
Trên muôn lối đi không có dấu người /
Thuyền lẻ loi, ông chài áo tơi nón lá/
một mình câu tuyết trên sông lạnh )
Đăng Cao
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai
Chử thanh sa bạch điểu phi hồi
Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ
Bất tận Trường Giang cổn cổn lai
Vạn lí bi thu thường tác khách
Bách niên đa bệnh độc đăng đài
Gian nan khổ hận phồn sương mấn
Lạo đảo tân đình trọc tiểu bôi
Đỗ Phủ
(Nghĩa:
LÊN CAO
Gió thổi mạnh, trời cao, vượn kêu buồn thương,
Bến nước trong, cát trắng, chim bay trở về
Lá cây rụng ào ào, dường như không bao giờ hết
Sông Trường Giang cuồn cuộn chảy bất tận
Mùa thu buồn, thường làm khách (xa nhà) vạn dặm,
Cõi đời trăm năm nhiều bệnh, một mình bước lên đài.
Khổ hận gian nan (làm cho) búi tóc nhuộm đầy sương
Lận đận gần đây phải ngừng chén rượu đục
Dịch thơ:
Trèo lên cao
Gió mạnh trời cao vượn réo sầu
Bến trong cát trắng, chim về đâu ?
Mênh mông cây rụng hiu hiu trải,
cuồn cuộn Trường Giang chảy chảy mau.
Muôn dặm sầu thu, thường tác khách,
Trăm năm đa bệnh, dạo đài cao.
Gian nan khổ hận đầu mau bạc,
lận đận đành thôi chén rượu đào.
(Ngô Văn Phú)
Vọng Lư Sơn bộc bố
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên
Lý Bạch
Nghĩa
Xa ngắm thác núi Lư
Mặt trời chiếu núi Hương Lô sinh làn khói tía
Xa nhìn dòng thác treo trên dòng sông phía trước
Thác chảy như bay đổ thẳng xuống ba nghìn thước
Ngỡ là sông Ngân Hà rơi tự chín tầng mây.
Đọc những bài thơ này, bạn đọc hôm nay sẽ ngạc nhiên trước sự khám phá những tứ thơ thật lạ, thể hiện những tình cảm mãnh liệt của thi nhân và kiểu tư duy thơ thiên về vẻ đẹp trí tuệ, vẻ đẹp tư tưởng. Chính cái đẹp của tứ thơ tư tưởng có sức ám ảnh và lay động sâu xa trong lòng người đọc.
Thơ Đường luật Việt Nam đã được các bậc tiền bối Việt hóa. Sự khác biệt cơ bản là ở kiều tư duy nghệ thuật. Hình tượng thơ không còn là tứ thơ tư tưởng mà là hình ảnh biểu cảm (như hình ảnh trong ca dao). Cái hay của thơ Đường luật Việt Nam là ở tình tự dân tộc, làng quê, ở chất dân dã mộc mạc nhưng tinh tế, ở phẩm chất tâm hồn và văn hóa Việt Nam
Bạn Đến Chơi Nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà.
Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.
Ao sâu nước cả, khôn chài cá,
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ,
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây ta với ta.
Nguyễn Khuyến
Qua Đèo Ngang
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà,
Cỏ cây chen lá đá chen hoa.
Lom khom dưới núi tiều vài chú,
Lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng cái da da.
Dừng chân đứng lại trời non nước,
Một mảnh tình riêng ta với ta.
Bà Huyện Thanh Quan
Thương vợ
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phần
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
Trần Tế Xương
Thơ Đường luật còn đem đến cho người chơi thơ những thú vui trí tuệ của nghệ thuật ngôn từ. Đó là cái thú của sự tài hoa vượt qua luật lệ cứng nhắc gò bó chật chội của thơ Đường. Đó là nghệ thuật chơi chữ mà khó có thứ ngôn ngữ nào khác tiếng Việt có thể có được. Xin đọc bài Cửa Sổ Đêm Khuya sau đây của Hàn Mặc Tử
Hoa cười nguyệt rọi cưả lồng gương
Lạ cảnh buồn thêm nỗi vấn vương
Tha thướt liễu in hồ gợn sóng
Hững hờ mai thoảng gió đưa hương
Vắng bạn ngâm thơ rượu bẽ bàng
Qua lại yến ngàn dâu ủ lá
Hoà đàn sẵn có dế bên tường
Bài Cửa Sổ Đêm Khuya có thể đọc nhiều cách : đọc xuôi, đọc ngược. Bỏ 2 chữ đầu đọc xuôi, bỏ 2 chữ cuối đọc ngược.
Bài Nỗi Buồn Xuân Xưa của Đông Hòa cũng có thể đọc thuận, nghịch [5]
Xuân vắng đã xưa cảnh đổi dời
Muộn ngày thêm trắng sợi buồn rơi
Nhân tình luyến mộng đêm mòn giấc
Mộ huyệt chôn người kiếp khổ đời
Ân oán nỗi lòng vương đắm mộng
Đớn đau hồn lặng khuất ngàn khơi
Trần duyên mãi tiếc ai tràn lệ
Xuân đợi mỏi chân bước rã rời
Nghệ thuật xướng-họa cũng là một cái thú của thơ Đường luật. Bởi người họa phải vượt qua cái khó của thi luật, tình, ý mà người xướng nêu ra, đồng thời cũng phải thể hiện được nét tài hoa trong nghệ thuật và tầm vóc văn hóa tương xứng với người xướng. Cặp xướng –họa Xuân Hương và Chiêu Hổ là một thí dụ.
Hồ Xuân Hương xướng:
Anh đồ tỉnh, anh đồ say
Sao anh ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Này này chị bảo cho mà biết
Chốn ấy hang hùm chớ mó tay!
Chiêu Hổ họa:
Này ông tỉnh, này ông say
Này ông ghẹo nguyệt giữa ban ngày
Hang hùm ví bẵng không ai mó
Sao có hùm con bỗng trốc tay?
Đọc bài xướng –họa trên, người đọc không còn thấy đâu là những vướng mắc của thi luật, hay khuôn sáo của văn chương cửa Khổng sân Trình, trái lại sự tài hoa của nhà thơ, những tinh tế của tiếng Việt và những tứ thơ bất ngờ, độc đáo làm vỡ ra những thú vị nghệ thuật không dễ có được .
2. Thơ Đường luật trong dòng chảy của thơ Việt Đương đại
Trong tiến trình thơ Việt đương đại, thơ Đường luật không giành được một vị trí đáng được chú ý, mà hình như chỉ hiện diện bên lề, người đi đường không mấy quan tâm. Người làm thơ Đường luật lý giải thế nào về thực tế này ?
Câu trả lời có lẽ nằm ngay trong thi pháp thể loại. Thơ Đường luật Bát cú hay Tứ Tuyệt, với số câu, số chữ giới hạn, không chứa đựng nổi hiện thực lớn lao, không diễn tả được những cảm xúc mãnh liệt của con người trước những biến động của lịch sử. Không phải ngẫu nhiên mà trường ca phát triển mạnh trong thơ Việt Nam từ ngay sau Cách Mạng tháng Tám 1945 (Đèo Cả, Hoan Hô Chiến Sĩ Điện Biên) nhất là trong kháng chiến chống Mỹ.
Bố cục thơ Đường luật, phép đối, niêm, cách phô diễn tình cảm tư tưởng đều theo khuôn mẫu, khiến cho thơ Đường luật trở nên khuôn sáo, cứng nhắc, vô cảm. Đọc câu thơ trước có thể đoán được ý câu sau (do phép đối). Đọc một bài có thể liên tưởng được nhiều bài. Người làm thơ Đường luật hôm nay hầu như khai thác lại tất cả các đề tài, cảm xúc, tứ thơ đã được người đi trước khai thác, khiến cho thơ Đường luật hiện nay trở nên quá cũ, đánh mất đi sự sáng tạo.
Xin đọc
Tự hào
Kháng chiến gian lao một chặng đường
Anh hùng liệt sỹ sáng bao gương
Bền gan, vững chí qua mưa nắng
Bất khuất, kiên cường vượt tuyết sương
Muôn thuở, danh thơm ngời đất nước
Ngàn đời tên tuổi rạng quê hương
Cháu con mãi mãi luôn ghi nhớ
Ơn lớp người xưa đã dẫn đường .
(Ngô Ngọc Khánh- Cao Bằng)
Tức cảnh
Cần Thơ nắng trải ngất ngây tình
Nhẹ lướt du thuyền ngoạn cảnh xinh
Bổng tiếng đàn bầu vương nét cọ
Xề câu vọng cổ bén duyên mình
Cầu vươn sừng sững, chim vờn bóng
Nước chảy miên man, cá giỡn hình
Vẳng giọng hò ai da diết lạ
Hay là nhắn gọi đất hồi sinh .
(Nguyễn Thanh Toàn –Cần Thơ)
Chiều Xuân Hà Nội
Chiều xuân Hà Nội gió riêu riêu
Tháp bút mờ xa rựng ráng chiều
Nắng sót bừng soi đường phố cũ
Trăng ngời rắc hạt bức tường rêu
Long Biên sừng sững con rồng thép
Sông Nhị lung linh giải lụa điều
Cây cối xanh tươi mầm nảy nụ
Bờ xa ríu rít tiếng chim kêu
(Xuân Bảo- Đồng Nai)
Ba bài thơ trên rất chuẩn mực về niêm luật, về câu chữ và tình ý. Bạn đọc không thể chê vào đâu được. Thế nhưng khuôn mẫu cứng ngắc, sáo mòn, giả tạo, cũ kỹ của thơ Đường luật làm cho nội dung bài thơ trở nên quá lạc hậu với đời sống đang cuồn cuộn chảy ngoài kia, khiến người đọc thơ khó tránh khỏi sự ngán ngẩm về một thứ thơ đã mờ nhạt rêu phủ.
Người làm thơ Đường luật hôm nay vẫn vịnh cảnh, tức cảnh, Xuân, Hạ, Thu, Đông, trăng, rượu, thù tạc, nhâm nhi với tình bạn, tình quê, trải lòng với đất nước, giãi bày tâm sự, tìm quên trong tư tưởng Lão Trang…
Đêm trăng
Đêm đêm cùng bạn ngắm trời mây
Mê mải đuổi trăng đến chốn này
Gió chuyển niềm vui tràn bể bắc
Mây xua nỗi nhớ ngập rừng tây
Trăng vàng soi tỏ lòng sông cạn
Mắt ngọc rơi trong giếng nước đầy
Chú dế kêu kêu tròn mũ lính
Chị Hằng nhè nhẹ vịn tay xoay .
(trong tập Những Hạt Phù Sa-CLB thơ Hoài Đức)
Ung Dung
Rượu bầu thơ túi cứ an nhiên
Thênh thang trời đất sống như tiên
Kệ thằng danh lợi lòng không lụy
Mặc đứa giàu sang dạ chẳng phiền
Gối bóng trăng khuya vờn đỉnh núi
Tựa làn gió nhạt thoảng bên hiên
Thế gian một kiếp sầu ai oán
Bốn cửa nhân sinh thỏa nhãn tiền
Khánh Chân –Biên Hòa
Tuy vậy, đôi khi người đọc cũng gặp được bài thơ hay. Xin đọc
Dang dở
Nhỡ hái cho nhau những trái sầu
Tình ta đành để lạnh mưa ngâu
Mênh mông con nước chia bờ mộng
Lặng lẽ đàn chim bỏ nhịp cầu
Chẳng phải em xưa lười dệt cửi
Đâu vì ta trước biếng chăn trâu
Lạc loài hai đứa hai phương nhớ
Mấy bận sương thu nhuộm mái đầu !
Mười năm cách biệt
Thiếu vắng mười năm em với ta
Mười năm mà ngỡ mới hôm qua!
Em chưa chải hết sầu trên tóc
Ta đã chôn rồi mộng dưới hoa
Vẫn nhớ vẫn thương mà cách trở
Dẫu cười dẫu khóc cũng chia xa
Con tim vô tội chưa ngừng đập
Thì chút tình xưa mãi thiết tha…
Đó là hai bài thơ Đường luật thất ngôn bát cú của nhà thơ Đinh Vũ Ngọc đang sống ở Phố cổ Hội An . Thực ra sức hấp dẫn của hai bài thơ trên là ở cảm hứng lãng mạn mà ngòi bút tài hoa đã vượt qua được sự khô cứng của khuôn mẫu thơ Đường luật cổ điển. “Nhỡ hái cho nhau những trái sầu/Tình ta đành để lạnh mưa ngâu”và “Em chưa chải hết sầu trên tóc/ Ta đã chôn rồi mộng dưới hoa”là những tứ thơ lãng mạn nổi bật lên trên nền Đường luật.
3. Con đường nào cho thơ Đường luật Việt Nam hiện nay?
Từ thơ Đường đến thơ Đường luật, khởi đi từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, con đường Việt hóa đã hoàn tất bởi thế hệ những nhà thơ Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Khuyến… Sau này Quách Tấn cũng không có đóng góp gì mới cho việc cách tân thơ Đường luật.
Nét Thương Tâm
Bồi hồi canh trở mộng
Nửa nguyệt gác đầu non
Dưới bóng đèn hiu hắt
Mẹ già ngồi khóc con.
(Quách Tấn)
Mong Đợi
Ngọt ngào xuân rụng móc
Cam chuối đượm tình quê
Tựa cửa chờ trăng mọc
Muôn xa lòng ghé về.
(Quách Tấn)
Lòng Thiên Cổ
Giũ áo vào hư không
Nghìn xưa phai nét chữ
Song khuya ngọn sáp hồng
Giọt ứa dòng tâm sự.
(Quách Tấn)
Hư Tâm
tặng P. J. F.
Chim chiều kêu trước dậu
Gối sách nhìn hư không
Phơi phới làn mây trắng
Bay qua ngọn ráng hồng.
(Quách Tấn)
Dù Vậy Quách Tấn cũng để lại một gương mặt thơ tài hoa có đường nét riêng, có khí vị Thiền mà sau này Phạm Thiên Thư là người kế thừa (?)Những người làm thơ Đường luật hiện nay đã không đi theo con đường của Quách Tấn, mà đi theo Bà Huyện Thanh Quan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương…thành ra thơ Đường luật hiện nay quá cũ về thi pháp, hầu như chỉ lặp lại những tình điệu, ý tứ đã được khai thác cạn kiệt.
Theo tôi, có hai hướng có thể làm mới thơ Đường luật. Trước hết đặc trưng thi pháp thơ Đường là ở sự sáng tạo những tứ thơ độc đáo, có vẻ đẹp trí tuệ, vẻ đẹp tư tưởng. Người làm thơ Đường luật muốn đạt được những giá trị mới, nhất thiết phải thực hiện được đặc trưng thi pháp này. Xin đọc Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh để thấy chủ tịch HCM đã làm mới thơ Đường luật thế nào
Nguyên Tiêu
Kim dạ nguyên tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba giang thượng đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền
Báo Tiệp
Nguyệt thôi song vấn : Thi thành vị?
- Quân vụ nhưng mang vị tố thi
Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng
Chính thị liên khu báo tiệp thì
Những bài thờ này vẫn nằm trong thi pháp thơ Đường nhưng tứ thơ rất mới và hiện đại. Chất liệu, cảm xúc và tư duy thơ là nghệ thuật cổ điển, song tứ thơ, cảm hứng, nội dung, tư tưởng lại hiện đại
Bài Cảnh Rừng Việt Bắc, Sáu Mươi Tuổi của HCM là một hướng làm mới thơ Đường luật theo một lối khác
Cảnh Rừng Việt Bắc
Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,
Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,
Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay,
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.
Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.
Sáu Mươi Tuổi
Sáu mươi tuổi hãy còn xuân chán
So với ông Bành vẫn thiếu niên
Ăn khoẻ, ngủ ngon, làm việc khoẻ
Trần mà như thế kém gì tiên.
Đây là hướng các nhà thơ cổ điển Việt hóa thơ Đường đã thực hiện. Nhà thơ đem nguyên chất hơi thở đời sống hiện thực vào thơ. Chính nội dung hiện thực mới này làm cho thơ Đường luật mới mẻ, thoát khỏi khuôn sáo cũ. Thơ gần với đời sống.
Tứ tuyệt Đường luật là một thể thơ đặc sắc, người làm thơ Đường luật nên khai thác thể thơ này. Xin đọc
Chim Sẻ Tháng Ba
Chim sẻ dập dình ngoài cửa sổ
Bay vào kiếm thóc tận trong nhà
Ngưng tay không nỡ cài then lại
Thương đám chim gầy đói tháng ba
(Ngô Văn Phú)
Em bé bán báo cuối năm
Cha mẹ mất vì tai nạn cả
Em đi bán báo dáng liêu xiêu
Phố phường chuẩn bị vào năm mới
Em đợi giàu thêm một tuổi nghèo.
(Mùa Xuân)
Ngồi Câu
Chẳng chấp gì bé lớn
Một mình nghe lặng thinh
Mây trên đầu luẩn quẩn
Ông ngồi câu bóng mình
(Trần Ngọc Tuấn)
Đan Áo
Em ngồi đan chiếc áo len xanh
Hẹn gió thu về gửi tặng anh
Rồi bỏ đó em vào thiên cổ
Anh một đời ngóng áo thiên thanh
(Phạm Thiên Thư)
Hiện nay có sự pha trộn tứ tuyệt lục bát và tứ tuyệt lãng mạn (kiểu thơ bảy chữ biến đổi luật bằng trắc của thất ngôn Đường luật).Nếu giữ được đặc trưng tứ thơ tư tưởng của thơ Đường thì sự kết hợp vẫn đạt tới những giá trị nghệ thuật mới mẻ
Át cơ
Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ
Nhà số lẻ, phố trò chơi để ngỏ
Mộng em hường, tim môi em bói đỏ
Giàn trầu già khua những át cơ rơi.
(Lê Đạt)
Ngậm ngùi tháng chạp
Người người náo nức về quê
Miến măng giỏ trước, cau chè bị sau
Rưng rưng, hút mắt con tàu
Mình còn cha mẹ nữa đâu mà về!
(Nguyễn Thái Sơn)
Vô Biên
Mảnh vườn em qua ngày đó
Lá xanh bay theo tóc mềm
Cỏ xanh tràn theo lối nhỏ
Để giờ vười hóa vô biên
(Trần Ninh Hồ)
Thơ Đường và thơ Đường luật Việt Nam là một nền thơ có thi pháp riêng, thi pháp ấy có sức gọi mời thi nhân sáng tạo. Vì thế tôi tin rằng nhiều nhà thơ Việt Nam sẽ tiếp tục tìm đến cái đẹp của thơ Đường luật. Trong muôn một, thế nào người đọc cũng tìm thấy những hạt châu ngọc thi ca lấp lánh.
Bùi Công Thuấn