Như các bạn yêu thơ Đường đều đã biết,
một bài Đường
Thi Thất Ngôn Bát Cú không chỉ đơn giản là thơ bảy chữ tám câu, mà nó còn phải
thỏa mãn 6 qui luật chặt chẽ: 1-Niêm, 2-Luật,
3-Vận, 4-Đối,
5-Tiết Tấu, và 6-Bố Cục.
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi sẽ chỉ lập lại 4 yếu tố đầu: NIÊM, LUẬT, VẬN và
ĐỐI.
1) Trước hết, NIÊM là gì? Ấy là các chữ thứ Hai (hay
thứ Nhì) của các cặp câu 1-8,
2-3,
4-5,
và 6-7 phải cùng thanh (Bằng hoặc Trắc)
2) Thứ đến, LUẬT là gì? Ấy là luật điều tiết âm thanh
theo chiều ngang trong một dòng thơ sao cho Bằng/Trắc
hài hòa, nghĩa là bảo đảm được sự cân bằng của “đòn cân thanh điệu”, gồm các chữ
thứ Hai, Tư, và Sáu trong câu, bởi
thế mà có yêu cầu “Nhị Tứ Lục Phân Minh”: Chữ thứ Tư là tâm đối xứng của câu thơ bảy chữ,
cũng là tâm đối xứng của “đòn cân thanh điệu”, và luật thơ Đường đòi hỏi chữ thứ Tư
ấy phải khác thanh với hai chữ thứ Hai và thứ Sáu, tức là: nếu chữ thứ Tư
là thanh Bằng, thì chữ thứ Hai và
thứ Sáu phải là Trắc, và ngược lại, nếu chữ thứ Tư
thanh Trắc thì chữ thứ Hai và
thứ Sáu phải là Bằng. Ngoài ra còn luật “Nhất Tam Ngũ Bất
Luận”, là để một khoảng tương đối thoải mái cho người làm thơ; tuy
vậy, riêng chữ thứ Năm, do yêu cầu
hài hòa tự nhiên, phải khác thanh (Bằng/Trắc)
với chữ thứ Bảy, mà chữ thứ Bảy thì thanh luôn cố định, nên thanh
của chữ thứ Năm cũng mặc nhiên cố
định theo.
3) Còn thế nào là VẬN? Một bài bát cú có năm vần, là năm âm nguyên âm giống hoặc gần giống nhau ở các chữ thứ Bảy (tức chữ cuối cùng) của các câu 1-2-4-6-8. (Thơ
Đường thường gieo vần Bằng;
còn vần Trắc ít khi dùng, bị coi như không chính qui, và chủ yếu trong thơ Cổ
Phong.)
4) Và thế nào
là ĐỐI?
Các cặp câu Thực
(3-4) và Luận (5-6) phải đối xứng nhau
về 3 yếu tố: Thứ nhất - đối THANH (Bằng/Trắc); thứ nhì - đối TỰ LOẠI (Danh từ phải đối với Danh từ, Động từ với Động từ, Tính từ với Tính từ, Trạng từ với Trạng từ…, chứ không được đối lệch), và thứ ba - đối NGHĨA.
Mô hình của một bài thơ Đường thất ngôn bát cú
xét về thanh (Bằng/Trắc) như sau:
Mô hình 1: Bằng khởi cách
(Chữ thứ Hai của câu thứ Nhất có thanh Bằng):
B
B T T T B B
T T B B T
T B
T T B B B T T
B B T T T B B
B B T T B
B T
T T B B T
T B
T T B B B
T T
B B T T T
B B
Mô hình 2: Trắc khởi cách
(Chữ thứ Hai của câu thứ Nhất có thanh Trắc)
T T B B T
T B
B B T T T
B B
B B T T B
B T
T
T B B T T B
T T B B B T T
B B T T T B B
B B T T B
B T
T T B B T
T B
(Trong 2 mô hình, có sự lập lại về
thanh điệu: Các câu 1-4-8 giống nhau;
2-6 giống nhau; 3-7 giống nhau.)
Dưới đây chúng tôi mạn phép góp ý về
các trường hợp chưa chỉnh luật (thơ Đường), xét chủ yếu theo 2 yếu tố LUẬT
và ĐỐI (và ngẫu nhiên cũng là 2 tiêu chí mà
một số tác giả thường thiếu lưu ý), trong các bài Thất Ngôn Bát Cú
Thuận Nghịch Độc mà thoduongdatviet.com
đã đăng tải
Những trường hợp chưa chỉnh về LUẬT
(Bằng/Trắc): Phần lớn là do các chữ thứ Nhất và thứ Ba trong các câu đọc xuôi
(thuận độc) được gieo cùng thanh Bằng hoặc Trắc, do vậy
khi đọc ngược (nghịch độc) sẽ tương ứng trở thành các chữ thứ Bảy và thứ Năm cùng thanh, tức là không chỉnh luật, thí dụ trong các bài sau:
TÌNH XUÂN (Lưu ý:
Xin bấm chuột vào tên bài thơ để vào đọc bài thơ liên hệ.)
Câu 1: Cành
Mai dâng sắc nghĩa trao đời khi nghịch độc sẽ thành câu 8: Đời trao nghĩa sắc dâng mai cành
Câu 3:
“Oanh Điểu” hoài
mong tình múa nhảy è câu 6: Nhảy
múa tình mong hoài “Điểu Oanh”
Câu 4:
“Lý Ngư” nỗi
nhớ ý xa bơi è câu 5:
Bơi xa ý nhớ nỗi “Ngư Lý”
Câu 5: Thanh
thiên mây phủ không mờ biển è câu
4: Biển mờ không phủ mây thiên thanh
TIẾNG CUỐC VÀO
HÈ
Câu 1: Vang
xa nghe cuốc gọi vào hè khi nghịch độc sẽ thành câu 8: Hè vào gọi cuốc nghe
xa vang
Câu 3: Sang
bến chờ ai ! sao chẳng thấy è câu 6: Thấy
chẳng sao ai chờ bến sang
Câu 4: Đến
đò gọi bạn hỡi ! nào nghe è câu
5: Nghe nào hỡi bạn gọi đò đến
Câu 6: Dịu
dịu gió nghiêng đỡ bóng che è câu 3: Che bóng đỡ nghiêng gió dịu dịu
Câu 7: Mang
nặng duyên thơ tình luyến ái è câu 2: Ái
luyến tình thơ duyên nặng mang
PHƯỢNG THẮM
Câu 1: Em
nhớ còn anh đâu dễ quên è câu 8: Quên dễ đâu anh còn nhớ em
Câu 5: Êm ã thuyền mơ tình bến dưới è câu 4: Dưới bến thuyền mơ tình ả êm
NỖI BƯỚC SANG
ĐÔNG
Câu 5: Du
khách thăm về ai ngóng đợi è câu 4: Đợi
ngóng ai về thăm khách du
Câu 6: Vãng
lai viếng đến bạn chờ trông è câu 3: Trông chờ bạn đến viếng lai vãng
KHỔ
TẬN CAM LAI
Câu 1: Qua
thời ta khổ tận ngày xưa è câu 8: Xưa ngày tận khổ ta thời qua
Câu 3: Da
bủng beo lưng cơm lửng lửng è câu 6: Lửng
lửng cơm lưng beo bủng da
(Lưu
ý: Với các chữ thứ Năm và thứ Bảy gieo cùng thanh Bằng hoặc Trắc, bài thơ sẽ trở thành Thơ Mới hay Thơ Hiện Đại bảy chữ, chứ không còn là Thơ Đường Luật.)
Những trường hợp chưa chỉnh về ĐỐI
(trong các cặp Thực
và Luận),
ngoại trừ bài NỖI BƯỚC SANG
ĐÔNG ở các câu Luận (5-6):Dù cho cách trở hay ngăn suối / Nếu phải vì
nhau cùng lội sông: cặp chữ “hay”/ “cùng” đều thanh Bằng - là ĐỐI THANH không chỉnh,
còn lại, chủ yếu chỉ liên quan đến ĐỐI TỰ LOẠI và ĐỐI NGHĨA. Các thí
dụ tiêu biểu có thể thấy ở các bài sau:
ĐỢI NGƯỜI GIỮA
CẢNH CHIỀU THU Câu 3-4: Ru chậm tiếng
hò thơ khẽ giọng / Đón thầm mơ
hát khúc hoang đồng và câu 5-6: Vu vi lệ nhớ tình xưa Hạ / Muộn rũ lòng buồn mộng trước Đông: Dù thuận
độc hay nghịch độc, các cặp chữ “ru chậm”/ “đón thầm”, “vu vi”/ ”muộn rũ” không đối nghĩa; “tiếng”/ “mơ”, “khẽ”/ “hoang”
không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
XA TÌNH GIỮA ĐÊM Bài 1, câu 3-4: Tràn dâng
lệ ứa thương duyên nợ / Thán oán tâm
hoài xót ước mơ và câu 5-6: Tranh họa
thức cùng ai
nhớ nguyệt / Bướm hoa trông mãi gói sầu tơ: Các cặp chữ “tràn dâng”/
“thán oán”,
“cùng ai”/
”mãi gói”
không đối cả tự loại lẫn nghĩa.Bài 2, câu 3-4: Thơ
hoài khúc tiễn đêm
ly biệt / Giọng đắng môi sầu
lệ đến nhanh và câu 5-6: Tơ cuộn giấc chờ duyên gọi mãi
/ Mộng cuồng hồn vọng bước tìm quanh:
Các cặp chữ “thơ
hoài”/ “giọng đắng”, “khúc tiễn”/ ”môi sầu”, “đêm”/ ”lệ”, “ly biệt”/ ”đến nhanh”, “duyên”/ ”bước”, “mãi”/ ”quanh” không đối nghĩa.
SẦU GỬI MÙA ĐÔNG Bài 1, câu 3-4:
Sương lạnh cõi tình đau đớn vọng / Giấc cô đêm mộng oán thầm mong và câu 5-6: Hương hoài lệ úa vừa sâu bóng / Bệnh đắm
hồn xa khó mở
lòng: Các cặp chữ “cõi tình”/ “đêm mộng”, “đau đớn vọng”/ ”oán thầm mong”, “hương”/ ”bệnh”,”hoài”/ ”đắm”, “vừa”/ ”khó”,”sâu bóng”/
”mở lòng”
không đối hoặc tự loại hoặc nghĩa. Bài 2, câu 3-4: Lòng ẩn tiếng sầu giăng khúc
nhạc / Biển xa chiều
nhớ vọng quê hương và câu
5-6: Mong chờ phút nguyện
tâm đầy lệ / Đợi mãi
hồn ai tóc vấy sương: Các cặp chữ “tiếng”/ “chiều”,
“khúc nhạc”/
”quê hương”,
“chờ”/
”mãi”,
“phút”/
”hồn”,
“nguyện”/
”ai”
không đối hoặc tự loại hoặc nghĩa hoặc cả tự loại lẫn nghĩa.
TÌNH XUÂN Câu
3-4: “Oanh
Điểu” hoài mong tình múa nhảy /
“Lý Ngư” nỗi
nhớ ý xa bơi và câu 5-6: Thanh thiên mây phủ không mờ biển / Bạch Nhật sương giăng vẫn sáng trời: Các
cặp chữ “hoài”/
“nỗi”,
“múa”/
”xa”
không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
MẾN CẢNH YÊU
NGƯỜI Câu 5-6: Rèm buông
cửa vắng nhà im lặng / Bến rộn sông đưa
sóng chuyển dời: Các cặp chữ “buông”/ “rộn”, “vắng”/ ”đưa” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
TIẾNG CUỐC VÀO
HÈ Câu 5-6: Chan chan nắng đổ tầm
cây dựa / Dịu dịu gió nghiêng đỡ bóng che: Cặp chữ “tầm”/ “đỡ” không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
PHƯỢNG THẮM Câu 3-4: Thêm màu thuận nghịch
ta gìn chữ / Gợi ý trao vần bạn nhớ tên: Các cặp chữ “thêm”/ “gợi”, “thuận nghịch”/
“trao vần”
không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
CẢNH THU Câu
3-4: U ám
mây giăng mờ sớm tối / Mịt mù khói núi
kín đêm ngày và câu 5-6: Ru lòng lữ khách ai nào biết / Xót dạ trông đò bạn có hay:
Các cặp chữ “giăng”/
“núi”,
“lữ khách”/
“trông đò”
không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
NỖI BƯỚC SANG
ĐÔNG Câu 3-4: Du khách thăm về ai ngóng đợi / Vãng lai viếng đến bạn chờ
trông và câu 5-6: Dù cho cách trở hay ngăn suối / Nếu phải vì nhau cùng lội sông: Các cặp chữ “du khách”/
“vãng lai”,
“cách trở”/
“vì nhau”
không đối cả tự loại lẫn nghĩa, đặc biệt cặp “hay”/ “cùng”
hoàn toàn không đối cả thanh, lẫn tự loại, lẫn nghĩa.
KHỔ
TẬN CAM LAI Câu 3-4: Da bủng beo lưng
cơm lửng lửng / Dạ sầu bi sống
kiếp lơ lơ và câu 5-6: Xa
anh trận
chiến từng đêm mộng / Nhớ chốn thi đàn lắm buổi
ưa: Các cặp chữ “da”/ “dạ”, “bủng beo”/ “sầu bi”, “kiếp”/ “cơm”, “trận chiến”/ “thi đàn”, “đêm mộng”/ “buổi ưa” không đối nghĩa, và các cặp “lưng”/ “sống”, “anh”/ “chốn”
không đối cả tự loại lẫn nghĩa.
Ngoài ra, ở đây còn một
yếu tố khác chúng ta không nên không lưu ý: Các bài thơ tương tự như trên
đều được làm với mục đích Thuận Nghịch Độc (nghĩa là để có thể đọc ngược);
bởi vậy, ngoài việc đáp ứng toàn bộ 6 đòi hỏi cơ bản của thơ Đường - Niêm, Luật,
Vận, Đối,
Tiết Tấu, và Bố Cục
- như đã đề cập ở trên, người viết còn cần lưu ý, bằng không, sẽ làm nảy sinh
những kết hợp từ
(tiếng Việt) mà khi đọc ngược sẽ trở nên vô
nghĩa hoặc khiên cưỡng, thiếu thuyết phục, làm giảm giá trị của bài
thơ. Những thí dụ dưới đây có thể là tiêu biểu:
TÌNH XUÂN với câu 1
(cũng là câu 8): Cành mai dâng sắc nghĩa
trao đời khi đọc ngược thành Đời trao
nghĩa sắc dâng
mai cành, hay KHỔ
TẬN CAM LAI với câu 6: Nhớ chốn
thi đàn lắm buổi ưa khi đọc ngược
thành Ưa buổi
lắm đàn thi chốn
nhớ, và câu 8: Tha hồ quý
bạn đến người đưa - thành Đưa người
đến bạn quý hồ tha, phải chăng nghe
rất chông chênh về ngữ nghĩa?
Người ta có thể cho là nên châm chước,
chứ không nên quá đòi hỏi, đối với loại thơ Thuận Nghịch Độc này? Tuy nhiên, bản chất thơ Đường Luật nói chung ngay từ đầu đã là
“đòi hỏi”, “khắt khe”, và “tinh tế”;
cũng chính vì vậy nó thách đố người viết, và cũng chính vì “thách đố” như vậy
mà người viết mới có thể “khoan khoái”
khi hoàn thành một tác phẩm, còn người đọc cũng có thể “thích thú” khi thưởng thức nó. (Hơn thế nữa, nói đến những “cầm”, “kỳ”, “thi”, “họa”, “trà”, “tửu”,… của người
xưa, có ngón nào là “dễ tính”?) Riêng đối với tác giả các câu
thơ đã dẫn, họ cho thấy lòng yêu thích không chỉ dành cho Thơ Đường, mà còn đặc biệt cho Thơ Đường Thuận
Nghịch Độc, đến độ đã bỏ không ít thời gian cùng công sức thực hiện
nó, phải chăng chúng ta nên hết lòng tán thưởng, cũng như có quyền kỳ vọng ở họ
thêm một chút ít nỗ lực nữa, để hoàn thiện những đứa con tinh thần đáng quý của
mình?
PIERRE BÙI
(Th.S. TESOL,
Equest Academy, 116 Cống Quỳnh, Q.1, tpHC
Email: buihoangvi@gmail.com
(Có tham khảo THI PHÁP THƠ ĐƯỜNG, Chương 5
-“Thể Loại và Kết Cấu”, Nguyễn thị Bích Hải,
NXB Thuận Hóa, Huề -1995)