"... Mai sau, những cái tầm thường, mực thước sẽ biến đi và còn lại của cái thời kỳ này, chút gì đáng kể đó là Hàn Mặc Tử" (Chế Lan Viên - Tạp chí Ngày mới, ngày (23-11-1940) và Hàn Mặc Tử là "người đầu tiên làm cuộc cách mạng văn chương ở thế kỷ XX" (Trần Thanh Mại, Hàn Mặc Tử, Tân Việt, 1940). Những dòng chữ như khắc trên bia mộ kia ngày càng được thời gian mài sáng.
Bài - viết - hành - hương - đến - với Hàn Mặc Tử này chỉ là một chìa khóa để đi vào tòa lâu đài nghệ thuật của thơ ông, khẳng định lại những điều mà bạn bè ông bằng trực giác đã khẳng định.
TÍNH TRỮ TÌNH
Thơ mới là sự tiếp nối một cách đứt đoạn dòng thơ trữ tình truyền thống - con sông cái trong hệ thống thủy văn văn học Việt Nam. Nếu Tản Đà, nhà thơ - nhà nho tài tử - kiện tướng cuối cùng, chạy đến hụt hơi mà vẫn không vượt qua ngưỡng Thơ mới, thì Hàn Mặc Tử là hiện thân sinh động cho sự tiếp tục cuộc chạy đua tiếp sức đó. Và điều cần thiết để bứt lên phía trước là lúc chạy khởi động ở cuối chặng đường thơ cổ điển, Hàn Mặc Tử dường như đạt tới tốc độ của Tản Đà.
Hàn Mặc Tử làm thơ khi còn nhỏ (1926, 14 tuổi). Sau đó một vài năm, Tử đã xướng họa với Phan Bội Châu và được ông Già Bến Ngự hết lòng khâm phục. Tập thơ Đường luật Lệ Thanh thi tập đã đạt đến trình độ mỹ học cổ điển với những câu: "khóc dùm thân thế, hoa rơi lệ, Buồn giúp công danh, dế dạo đàn". (Thức khuya), với thuật làm xiếc ngôn từ ở bài Cửa sổ đêm khuya có 6 cách đọc. Tuy nhiên, ngay từ giai đoạn này, thơ Hàn Mặc Tử đã trổ ra những ánh khác lạ: "Hé cửa, nhìn trăng, trăng tái mặt/ Cài then, thắp nến, nến rơi châu" (Lều tranh đêm đông) hay "Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối/ Gió thu lọt cửa cọ mài chăn"...
Chuyển sang làm Thơ mới, với tập Gái quê (1936), Đau thương, Xuân như ý, Thượng thanh khí, Cầm châu duyên, Hàn Mặc Tử cùng các nhà thơ khác như Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Vũ Hoàng Chương... tiếp tục đưa thơ trữ tình Việt Nam lên những đỉnh cao mới. Điều này trước hết nhờ có sự giải phóng cá nhân. Bởi lẽ, thơ trữ tình là sự chiếm lĩnh kinh nghiệm thực tại thông qua một cá nhân cụ thể. Dòng thơ trữ tình truyền thống, từ Đoàn Thị Điểm đến Tản Đà, là sự vật vả quyết liệt và đau khổ để giải phóng cá tính: chống lại những quy phạm đã thành thiên la địa võng. Cuộc vật lộn trường kỳ đó được các nhà Thơ mới kết thúc có khải hoàng ca, tuy còn đầy mặc cảm. Chưa bao giờ và chưa ở đâu như các nhà Thơ mới thâm cung bí hiểm của nội tâm được thăm dò ở nhiều tầng bậc như vậy. Sức mạnh của tiếng nói nội tâm đã phá vỡ những rào cản ngôn ngữ để đưa ra những nhịp điệu mới làm biến đổi cả ngôn từ, thể thơ và các phương tiện biểu hiện khác.
Tuy nhiên, những thành tựu trên là chung của cả "một thời đại thơ ca". Riêng Hàn Mặc Tử, đóng góp của ông, chỉ xét ở khía cạnh trữ tình so với những người cùng thời đã có nhiều khác lạ.
Nếu Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Phạm Huy Thông, Nguyễn Bính là dòng lãng mạng thuần khiết, nếu Xuân Diệu và nhất là Huy Cận là dòng lãng mạn được cườm vào những yếu tố tượng trưng, Đinh Hùng, Bích Khê chủ yếu là tượng trưng, thì Hàn Mặc Tử là sự hoà sắc của cả lãng mạn lẫn tượng trưng, thậm chí siêu thực nữa. Dĩ nhiên, một căn cốt Đông phương thâm hậu đã làm cho tượng trưng của ông có bóng dáng tượng trưng Đường thi, và xa hơn nữa là tượng trưng Thiền, còn siêu thực thì đậm nhạt một màu sắc Liêu Trai. Điều này tạo nên sự riêng biệt, vừa phong phú vừa sâu sắc, trong phong cách trữ tình của thơ Hàn Mặc Tử.
Trữ tình Hàn Mặc Tử, trước hết, là gợi cảm chứ không phải là truyền cảm. Nhà thơ không truyền thẳng cảm xúc của mình tới độc giả nhờ phương tiện ngôn ngữ, thức dậy thứ năng lượng đó vốn tiềm ẩn trong mỗi độc giả, vì vậy mà cảm giác thẩm mỹ của người đọc no đủ hơn, sâu sắc hơnbởi như tránh được một sự áp đặt từ bên ngoài:
" Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị hằng ơi'
(Bẽn lẽn)
Nhà thơ ở đây đã phóng chiếu những rạo rực bản năng ra ngoài vũ trụ. Cái nhìn của ông ve vuốt, mơn trớn cả tạo vật. Cảm giác này được thi nhân thể hiện theo lối ứng xử phương Đông vừa lộ liễu, vừa kín đáo theo lối gợi khác với cách nói trực tiếp theo lối truyền của Xuân Diệu ("Hãy sát đôi đầu! Hãy kề đôi ngực! Hãy trộn nhau đôi mái tóc ngắn dài ! Những cánh tay! Hãy quốn riết đôi vai! Hãy dâng cả tình yêu lên sóng mắt!"). Hàn Mặc Tử đã giăng mắc một mạng lưới các danh từ chỉ động thái nằm sõng soãi, ngây tình, hồi hộp, lả lơi... Những từ này, nếu đứng riêng rẽ thì không làm sao, nhưng một khi đứng cạnh nhau thì lập tức làm người ta nhớ đến những cụm từ khác được chuyên dùng để chỉ chuyện tình ái như gió trăng, trăng hoa, phong tình, trêu hoa ghẹo nguyệt... nghĩa là, chúng đã thu phát xạ của nhau để tạo ra một trường ngữ nghĩa khiến mỗi yếu tố ngôn ngữ trong đó đều lấp lánh cái hàm nghĩa ái ân. Cảm xúc được gợi lên từ những tín hiệu ngôn ngữ, nhờ liên tưởng, cứ lan truyền đi xa mãi như những làn sóng.
Nhà thơ cổ điển nhìn thiên nhiên như nhìn vào một tấm gương phản chiếu để tự nhận thức mình với tư cách là một bộ phận của nó, một tiểu vũ trụ. Nhà thơ lãng mạn thì sử dụng thiên nhiên như một đối tượng hưởng thụ, hoặc một công cụ để giải bầy nội tâm. Thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu thường đóng vai trò yếu tố vật liệu hay chứng nghiệm cho những ý tưởng sáng tác của ông. Nhà thơ thường lồng trăng vào những dòng tư tưởng có tính cách triết lý ( "Trăng sáng, trăng xa, trăng lạnh quá, Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ"), hay nói đúng hơn, vào một thế giới trữ tình, mà trong đó những diễn biến, nếu muốn có thể giải thích thuần nhất theo một tâm hướng của cảm giác (vầng trăng trong Lời Kỹ nữ). Hàn Mặc tử, ngược lại, thường trình bầy trạng thái tỉnh của thiên nhiên nhưng không phải một tấm gương, mà như một hoạ điệu của hồn ông, đồng thời chi phối nó trong một nét tương quan thủy chung thanh thoát:
"Ánh trăng mỏng quá không che nổi
Những vẻ xanh xao của mặt hồ
Những nét buồn buồn tơ liễu rủ
Những lời năn nỉ của hư vô"
(Huyền ảo)
Cũng như Nguyễn Khuyến trong Thu vịnh, Hàn Mặc Tử ở đây đã khéo léo gài vào trạng thái tỉnh này những chuyển động hửng hờ. Nhưng khác ông già Yên Đổ, thi nhân biết đặt các yếu tố động ấy vào môi trường ngoại ý thức để chúng chỉ đứng vai trò làm nổi bật trạng thái tĩnh. Vầng trăng, thiên nhiên... thậm chí cả con người nữa, chỉ là những tượng trưng của một thế giới vô hình, huyền ảo. Nhờ vậy, Hàn Mặc Tử đã tạo ra được một cách thuần khiết thế giới thơ của riêng ông: khi ông vẽ lên bối cảnh thiên nhiên thì đồng thời chính ông cũng tan biến vào thiên nhiên. Đặc điểm này về sau trong "giai đoạn đau thương" còn được đầy lên một bước nữa: nhà thơ đã làm mất luôn cả bối cảnh thiên nhiên ấy để thế giới thơ ông trở thành vô thường.
Tính chất vô thường của thế giới Hàn Mặc Tử còn gắn với nghệ thuật siêu thực trong thơ ông. Trong các nhà thơ Việt Nam bây giờ có lẽ không ai đậm chất siêu thực như ông. Hãy xem, cặp mắt "đau thương" của nhà thơ nhìn một bông hoa :
" Sao bông phượng nở trong màu huyết,
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu?".
Còn đây là một tâm trạng khác của nhà thơ:
"Tôi ngồi dưới bến đợi nường Mơ,
Tiếng rú ban đêm rạn bóng mờ,
Tiếng hú hồn tôi xô vỡ sóng,
Rung tầng không khí bạt vi lô,
Ai đi lững thững trên làn nước,
Với lại ai ngồi khít cạnh tôi..."
Theo Quách Tấn kể lại thì một khuya mùa đông, Tử ngồi ngắm trăng một mình trên biển. Vắng chi là vắng. Bỗng có một bóng người ngồi khít bên Tử. Từ bóng ấy ra bóng nữa... Điều này có thực hay không không quan trọng bằng những hình tượng thơ của Hàn Mặc Tử đã tạo ra một thế giới siêu thực, ảo hoá giúp ta thâm nhập vào trạng thái tâm hồn chân thực của thi nhân.
Tại sao thơ Hàn Mặc Tử lại giàu yếu tố siêu thực như vậy? Có thể tiến trình Thơ mới gần mười lăm năm là sự tương ứng với hơn một thề kỷ thơ Pháp. Sau Lãng mạn sẽ đến Tượng trưng và Siêu thực. Hàn Mặc Tử, tuy tự mình đi một mạch từ cổ điển đến siêu thực, nhưng thơ ông chín rộ vào quãng gối đầu giữa Tượng trưng và Siêu thực. Hơn nữa điều quan trọng hơn, là tạng thơ của Hàn Mặc Tử. Kiểu tư duy, khí chất và bệnh tật làm cho ông luôn luôn phân thân, mộng mị và hoang tưởng. Do vậy, siêu thực với ông không phải là thủ pháp kỹ thuật, mà là bản chất sáng tạo của thơ ông.
Sau cùng, sự khác lạ của trữ tình Hàn Mặc Tử còn ở tính se xe của nó. Với một nền văn học không có truyền thống nói đến tính dục như của chúng ta thì điều đó lại càng lạ hơn nữa. Có lẽ tính chất nhục cảm trong thơ Hồ Xuân Hương xuất phát từ tín ngưỡng phồn thực (culte de fécondité), nên đọc thơ Bà chúa đâu đâu cũng thấy những biểu tượng Âm, Dương này, tưởng như lạc vào một ngôi chùa Tây Tạng. Còn nhục cảm của thơ Hàn thì rõ rang đi từ một "ẩn ức" nào đócủa những gái quê, gái đồng trinh, ni cô, cung nữ ở Lãnh Cung... Bởi vậy, nó len thấm vào thực thể của những câu thơ, khi thì biểu lộ ra bằng từ ngữ (sờ sẫm, cọ mài, trần truồng...), bằng những hình ảnh (khuôn vàng dưới đáy khe...), bằng những ám chỉ đến hành động giao hoan (các bài ra đời, Đêm xuân cầu nguyện, Đàn ngọc...) tạo thành một thứ vi khí hậu của tác phẩm. Sự kết hợp của chất nhục cảm dân dả, trần tục với chất thánh thiện, siêu thoát trong thơ hàn Mặc Tử tạo ra sự nghịch dị, chướng, dẫu hiện đại (modernité). Nhưng đấy chỉ là sự đối lập bề ngoài, ở tầng cao hơn, tức là ở bình diện triết học tâm linh, se xe và tôn giáo lại có sự gặp gỡ nhau, bởi chúng đều mang lại sự giải thoát và đưa con người về với nguồn cội của mình.
TƯ DUY TÔN GIÁO
Đọc Hàn Mặc Tử, người ta vấp ngay phải vấn đề: Hàn Mặc Tử, anh là ai? hoặc hẹp và ít trừu tượng hơn: Hàn Mặc Tử có phải là nhà - thơ - tôn - giáo không? Câu hỏi này có nhiều câu trả lời. Để khỏi vướng vào những tranh luận không lối thoát, tôi giải đáp vấn đề theo cách riêng của mình. Nếu Nguyễn Trọng Trí là một tín đồ Thiên Chúa giáo thì Hàn Mặc Tử lại là một nhà thơ. Với nhà thơ thì một nghệ thuật là tối thượng, là đạo. Nhưng nhà thơ ấy lại không thể không liên quan đến vị tín đồ kia, nhất là trên phương diện hình thành một nhân cách và kiểu tư duy. Hơn nữa, Hàn Mặc Tử với tư cách là một nhà thơ coi tôn giáo với tất cả tinh thần của chữ ấy là một cái gì đó đời đời vĩnh hằng và tuyệt đỉnh của nghệ thuật (Tựa tập thơ Tinh huyết của Bích Khê). Với một quan điểm tôn giáo như vậy, những Chúa, những Phập, những Tây Vương Mẫu... chỉ là những biểu tượng cụ thể của những cái Duy nhất, cái Vĩnh hằng. Đến với Hàn Mặc Tử, từ cạnh khía tư duy, tư duy tôn giáo, là hợp lý hơn cả. Điều đó chẳng những khắc phục sự tranh chấp bất phân thắng phụ về vấn đề Hàn Mặc Tử có phải là nhà thơ tôn giáo không?", mà còn cho phép thâm nhậpvào bản chất nghệ thuật của thi nhân. Dĩ nhiên tôn giáo là một hiện tượng đa tạp, có khoảng sáng và vùng tối, có thoát tục và có trần tục, nhất là với tư cách là một thiết chế xã hội. Ở đây chúng tôi chỉ xét tôn giáo trên phương diện thuần túy là một kiểu tư duy.
Tư duy ma thuật, mà chừng nào đó là tư duy huyền thoại, do tính chất đa thần, đã xé vụn thế giới ra thành những mảnh riêng rẽ (tục ngữ: "Đất có Thổ công, sông có Hà bá"). Còn với tư duy tôn giáo, do tính chất độc thần, thế giới vỡ vụn đã được thống nhất trở lại. Nhờ đó con người mới có điều kiện để nhận thức bản chất thế giới, trả lời những câu hỏi bản thể luận như nguồn gốc của vũ trụ và con người, ý nghĩa của cuộc sống và cái chết...Tôn giáo, do đó, đóng vai trò cơ chế tư tưởng chuyển thành những giá trị riêng tư, cá nhân, dân tộc, khu vực thành những giá` trị chung, thế giới, nhân loại. Phật giáo coi mọi người đều có chung một thân phận là ai nấy đều phải gánh chịu là tứ khổ: sinh, lão, bệnh, tử. Do đó, ước mong đươc vớt khỏi bể khổ không là của riêng ai. Coi mọi người bất kể sang hèn, giàu nghèo đều có phật tính, nghĩa là có khả năng trở thành Phật, là một tư tưởng bình đẳng, nhân đạo. Thiên Chúa giáo cũng thừa nhận mọi người đều bình đẳng trước Chúa, vì giá trị của mỗi người là ở bản thân hành động của anh ta, chứ không phải ở tài sản, địa vị.
Như vậy, xét trên khía cạnh tư duy tôn giáo, các nhà thơ - thiền sư Lý - Trần (phật giáo) và Hàn Mặc Tử (Thiên Chúa giáo) đều có trong tay một công cụ như nhau (cơ chế tư tưởng) để nhân loại hoá thơ mình. Đó là sự giống nhau ở họ. Còn sự khác nhau, trước hết và chủ yếu, là ở sự khác nhau giữa Phật giáo và Thiên Chúa giáo coi trọng cá nhân nhìn con người như một cá nhân là do việc xưng tội buộc nó phải đánh giá, phán xét tâm hồn, hành vi con người một cách riêng tư. Tín đồ Thiên Chúa giáo tự chịu trách nhiệm trước Chúa về bản thân mình, với tư cách cá thể. Hai là, các nhà thơ Lý - Trần coi Hữu, Vô như nhau, sự sống, cái chết như nhau (Vạn Hạnh: ‘Thân như điện ảnh hữu hoàn vô"). Bởi vậy họ rất coi thường thân, thân là không, cái thân hiện ra, tức sắc thân, chỉ là ảo. Hàn Mặc Tử, ngược lại, rất coi trọng cuộc sống và cái chết, coi trọng thân xác. Tóm lại, nguyên cớ căn bản khiến Hàn Mặc Tử khác và cũng mới hơn các nhà thơ Lý - Trần là ở tính chất cá nhân đến với ông bằng hai nẻo: Thiên Chúa giáo và nền văn minh phương Tây được xây dựng trên cơ sở Thiên Chúa giáo.
Chính tư duy Thiên Chúa giáo đã làm cho sáng tác của Hàn Mặc Tử có cấu trúc nội tại, không những ở cấp vi mô (từng bài thơ) mà cả ở cấp vĩ mô (toàn bộ các tác phẩm), tạo nên một vũ trụ thống nhất, hoàn chỉnh. Theo nhà nghiên cứu Đặng Tiến thì Gái quê là thế giới đợi chờ Điềm lạ, đợi chờ Chúa ra đời, Đau thương là tâm hồn mong mõi của Chúa trở lại. Trong Đau thương, Hàn Mặc Tử chấp nhận bệnh tật như là nguyên tội, là "phương tiện thân xác" mà Chúa đã dùng để cứu thế. Bệnh tật là tham gia vào công đức cứu rỗi, làm nối liền người bệnh với bản thân Chúa - hiện - làm - người. Còn Xuân như ý là thế giới khải huyền; con người rủ sạch được tội lỗi Đau thương (tạp chí Văn, số 179, năm 1971). Như vậy, trên bình diện cấu trúc tác phẩm, sáng tác của Hàn Mặc Tử, một cách vô thức, đã "minh họa" cho con đường cứu rỗi của Thiên Chúa giáo - nghệ thuật là chia toàn bộ sáng tạo của nhà thơ thành ba thời kỳ. Một là giai đoạn cổ điển với Lệ Thanh thi tập. Đây là sự hài hòa của Hàn Mặc Tử với chính mình và với xung quanh, tương ứng với thời thơ ấu của con người hay "thuở thiên đường" của nhân loại. Hai là giai đoạn lãng mạn, tượng trưng và siêu thực với Gái quê, Đau thương và một phần của Xuân như ý... Hài hòa bị phá vỡ. Con người bất ổn với chính mình và hoàn cảnh: đau khổ, mơ ước, điên dại... Nó tương ứng với thời kỳ trưởng thành, vấp váp, bệnh tật của con người và của nhân loại "mất thiên đường". Ba là, giai đoạn tân - cổ điển với một phần của Thượng thanh khí và toàn bộ Cẩm châu duyên. Sự hài hòa lại được tái lập, dĩ nhiên là trong mơ ước tôn giáo. Đau thương rũ bỏ. Con người được trở lại "thiên đường" của mình. Các tôn giáo Đông phương cũng đi tìm giải pháp cho đau thương. Phật giáo coi cuộc đời là bể khổ, mà nguồn gốc của đau thương la dục vọng. Cho nên diệt dục là con đường cứu khổ cứu nạn. Lão Tử thì đưa ra thuyết vô vi, sống theo tự nhiên thì sẽ chữa được những lầm lạc của người đời. Chỗ gặp nhau của những tôn giáo lớn - những tư tưởng lớn là ở đây. Hạt nhân triết học của những tôn giáolớn cũng là ở đây.
Tư duy tôn giáo còn là công cụ hữu hiệu để nâng cánh cho trực giác nghệ thuật tuyệt vời của thi nhân bay cao, bay xa vào cõi siêu hình. Nhà thơ có một cái nhìn vũ trụ trong tính toàn thể, tính siêu việtcủa nó với một cảm xúc tràn đầy.
"Mới hay cõi siêu hình cao tột bực
Giữa hư vô xây dựng bởi trăng sao
Xa lắm rồi, xa lắm, hãi nhường bao!...
Ai tới đó chẳng mê man thần trí
Toà châu báu kết bằng hương kỳ dị
Của tình yêu rung động bởi hào quang
Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang
Sẽ quy tụ thâu về trong một mối
Và tư tưởng chẳng bao giờ chắp nối..."
Bức tranh vũ trụ được thi sĩ dùng trực giác để vẽ ra tưởng như đã gặp đâu đó trong một cuốn thiên văn hiện đại nào. Con người bay vào vũ trụ (cõi siêu hình cao tột bực), thoạt tiên còn có cảm giác cô đơn, nhỏ bé trước sự bao la (hãi nhường nào!), nhưng rồi thần bí mê man trước vẻ châu báu của vũ trụ, vũ trụ là thống nhất ("Những cù lao trôi nổi xứ mênh mang, Sẽ quy tụ thâu về trong một mối"), nên tư duy của con người, cái phản ánh của vũ trụ cũng mang tính thống nhất (" và tư tưởng chẳng bao giờ chắp nối"). Bài thơ cho thấy Hàn Mặc Tử đã đạt đến một tinh thần tôn giáo - vũ trụ (khái niệm của A.Einstein): đó là tính toàn thể của thế giới và tính nhất thể giữa con người và thế giới.
Hàn Mặc Tử thường hay quay trở về cội nguồn, với mùa xuân đầu tiên của trời đất và con người. Dường như ông tìm thấy ở đấy sự nhất thể tính nguyên sơ giữa con người và vũ trụ - căn nguyên của mọi nghệ thuật, châu báu mà con người đời sau đã đanh mất trong biển thời gian, và chỉ còn giống thi sĩ là cố công ngụp lặn, mò tìm:
"Thuở ấy càn khôn mới dựng lên
Mùa thơ chưa gặp tốt tươi lên
Người thơ phong vận như thơ ấy
Nào sẽ ra đời ngọc biết tên"
(Xuân đầu tiên)
Nhờ tinh thần tôn giáo - vũ trụ đó, các bài thơ Xuân của Hàn Mặc Tử (Mùa xuân chín, Xuân đầu tiên, Đêm xuân cầu nguyện) chẳng những giữ được vẻ trinh nguyên của đất trời, mà còn đợm một cảm giác huyền bí thiêng liêng của cuộc đời. Đó là ánh thiều quang khác lạ của thơ Hàn Mặc Tử so với thơ xuân của các thi sĩ cùng thời.
MÔ HÌNH VÀ SÁNG TẠO
So với thơ của các thi sĩ cùng thời như Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương..., thơ Hàn Mặc Tử có một sự khác về chất. Dó là tư duy tôn giáo kết hợp nhuần nhuyễn với chất trữ tình trên cơ sở cái tôi cá nhân hiện đại. Tính ưu việt của "hợp chất" mới này thể hiện ở những khía cạnh sau: Một là, tư duy tôn giáo với tính hệ thống chặt chẽ của nó làm cho các yếu tố tượng trưng, cổ điển của thơ Đường , tượng trưng tôn giáo, lãng mạn, siêu thực... vốn rời rạc, lẻ tẻ trước đây kết thành một cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh. Hai là con người cá nhân cá thể hiện đại kết hợp với con người siêu cá thể trung đại làm cho cái nhìn con người trong thơ Hàn Mặc Tử vừa có chiều sâu, thậm chí tầng sâu vô thức, vừa có chiều rộng, chiều phổ quát toàn nhân loại, đồng thời có chiều cao tâm linh. Hàn Mặc Tử đã phá vỡ con người nguyên phiến để tạo ra con người đa chiều kích. Con người với thi nhân, không chỉ là một, mà là hai, thậm chí vô số. Nếu Cao Bá Nhạ trong Tự tình khúc thấy "trong một mình bảy tám biệt ly", thì Hàn Mặc Tử còn thấy sự phân thân, hoá thân sinh động hơn:
"Bóng ai theo dõi bóng mình
Bóng nàng yêu tinh,
Nụ cười như tiếng vỡ pha lê"
Với cách nhìn con người từ bên trong như vậy, Hàn Mặc Tử báo hiệu sự ra đời của chủ nghĩa nhân văn mới, phi cổ điển. Ba là, yếu tố siêu thực và tôn giáo đã làm cho thơ Hàn Mặc Tử mang tính chất huyền bí của cuộc đời. "Điều đẹp nhất mà ta có thể cảm giácđược chính là cái khía cạnh huyền bí của cuộc đời. Đó là tình cảm sâu xa ở trong nôi của khoa học và nghệ thuật đích thực" (A.Einstein). Bốn là, tính trữ tình kết hợp với tư duy tôn giáo đã đẻ ra những hình tượng tân kỳ, như:
"Lụa trời ai dệt với ai giăng
Ai thả chim bay đến Quảng Hàn,
Và ai gánh máu đi trên tuyết ,
Mảnh áo da cừu ngắm nở nang..."
Từ mô hình trên, ở bình diện sáng tạo cụ thể, bước đổi mới đó của Hàn Mặc Tử được thể hiện bằng những biểu tượng nghệ thuật vừa độc đáo, vừa nhất quán. Đó là các ký hiệu - biểu đạt: trăng, hồn và máu.
Trăng là một mô típ, một biểu tượng của nhiều thề hệ thi sĩ Việt Nam. Trăng xuật hiện trong thơ thiền như một cái gì lạnh và tĩnh lặng tuyệt đối. Hơn nữa trăng lại thường sóng đôi với hình ảnh dòng nước chảy để biểu hiện quan niệm thiền hữu, không:
"Hữu không như thủy nguyệt
Vật trước hữu không không
(Vầng trăng vằng vặc in sông,
Chắc chỉ có một không không mơ màng)
Tính chất tĩnh lạnh của vầng trăng thiền biểu lộ sự không chú ý đến hiện hữu của ngoại vật, mà chỉ chú ý đến cái hư không của nội tâm. Điều này ngược với vầng trăng của thơ lãng mạn, vốn rạo rực nồng ấm.
Trăng với Hàn Mặc Tử có một quan hệ đặc biệt. Có người cho bệnh phong có một tương tác đặc hiệu nào đó với trăng, kiểu thủy triều. Điều đó có thể có hạt nhân hợp lý. Tuy nhiên, nếu có, đấy cũng chỉ là "cái hích ban đầu" thúc đẩy cỗ xe sáng tạo lăn bánh, chứ không phải là động cơ trực tiếp. Điều đáng nói là một nhà thơ lớn bao giờ cũng biết "khai thác" đến tận cùng cái tiểu sử cụ thể của mình. Nếu không bị cùi thì hẳn Hàn Mặc Tử đã không chú ý đến cái sắc độ dị thường trên gò má:
" Người trăng ăn vận toàn trăng cả,
Gò má riêng thôi lại đỏ hườm".
Nếu bản thân không nghèo đói, không yêu trăng thì thi sĩ cũng không có những câu thơ như:
"Áo ta rách rưới trời không vá",
Hoặc:
"Trời hỡi nhờ ai cho khỏi đói
Gió trăng có sẵn làm sao ăn"...
Chỉ có Hàn Mặc Tử mới có thể nói về cái thiếu thốn, thiếu vắng của mình cao sang như vậy.
Có thể nói, trăng, ánh trăng đã để lại những cảm giác vật chấtlên thân xác Hàn Mặc Tử. Bởi thế, trong khi các nhà thơ Lãng mạn khác thi vị hoá trăng, Hàn Mặc Tử lại trần tục hoá nó. Từ chỗ: "Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối" của thơ luật đến "Trăng nằm song soài trên cành liễu... Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe" thì đã là một bước tiến dài. Tuy nhiên, bên cạnh sự người hoá trăng đó, Hàn Mặc Tử còn trăng hoá người. Điều này khiến ngòi bút ông nẩy ra những câu thơ khác lạ:
"Mới lớn lên trăng đã thẹn thò
Thơm như tình ái của ni cô".
Đây là một sự kết hợp đầy kỳ cục giữa các từ rất xa nghĩa nhau như ni cô và tình ái và thơm... Nhưng đằng sau cái vẻ nghịch lý đó là sự thuận lý: trăng đối với Hàn Mặc Tử như một con vật lưỡng thê, vừa vật chất, vừa tinh thần, vừa trần tục vừa thiêng liêng... Cạnh khía thứ hai của trăng được bộc lộ rõ hơn về giai đoạn sau của thơ Hàn Mặc Tử.
Ở giai đoạn Đau thương này, trăng trong thơ Hàn Mặc Tử đã trở thành một ám ảnh ghê gớm. Nó vừa là ánh sáng, vừa là bóng tối, hay đúng hơn, là sự tương tranh của ánh sáng cùng bóng tối, một thế giới thích hợp với Hàn Mặc Tử. Nhà thơ cũng là ánh trăng:
"Không gian dày đặc toàn trăng cả
Tôi cũng trăng mà nàng cũng trăng"
Trăng cũng còn là hồn là máu. Đó là ba cạnh khía khác nhau của thế giới Hàn Mặc Tử, một thứ "tam vị nhất thể":
"Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa
Vỡ trăng thành vũng đọng vàng khô
Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy
Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra"
(Say trăng)
Và:
"Thịt da tôi sượng sần tê điếng
Tôi đau vì rung rợn đến vô biên
Tôi dìm hồn xuống một vũng trăng êm
Cho trăng ngập dần lên tới ngực"
(Hồn là ai)
Ba hình tượng trăng, hồn, máu, theo Đặng Tiến, dồn đọng lại trong tương quan chặt chẽ: nhà thơ khạc hồn ra khỏi miệng, điên cuồng mửa máu ra hay ngậm cả một miệng trăng. Như vậy, cả ba, trăng, hồn, máu, đều từ thân ác Đau thương.
Ngoài ra, thơ Hàn Mặc Tử đầy những máu lệ/ thét gào (bút danh Lệ Thanh), gió bụi (bút danh Phong Trần)... Chúng tồn tại như những biệt thể của thân xác, khi tụ khi tán. Đau thương trong thơ ông có tính lưỡng trị: một mặt, nó làm ông suy nhược, hao mòn, tan loãng, mặt khác, nó lkhơi dậy trong ông nguồn sáng tạo vô biên. Ma1u, hồn, trăng là đau thương trở thành sáng tạo. Điều này giải thích được sở thích kỳ lạ của Hàn Mặc Tử, thoạt đầu có vẻ bệnh hoạn: nhà thơ muốn được nhìn thấy máu mình chảy:
"Lời thơ ngậm cứng không rên rỉ
Và máu tim anh vọt láng lai
Thơ ở trong lòng reo chẳng ngớt
Tiếng vang tha thiết dội muôn nơi"
Hàn mặc Tử có vẻ say mêcái "thú đau thương" này:
" Cứ để ta ngất ngư trên vũng huyết,
Trãi niềm đau trên mảnh giấy mong manh.
Đừng nắm lại nguồn thơ ta đang siết
Cả lòng ta trong mớ chữ rung rinh"
Với Nguyễn Trọng Trí, tín đồ Thiên Chúa giáo, đau thương là một phương tiện cứu chuộc tội lỗi. Còn với Hàn Mặc Tử, nhà thơ, giải phẩu đau thương là hành vi sáng tạo. Thơ Hàn Mặc Tử là kinh nghiệm đau thương, kinh nghiệm của con trai kết ngọc. "Không phải ngẫu nhiên mà tập thơ hay nhất của ông là Đau thương: Hương thơm là đau thương của thân thể rỉ ra để biến thành những dòng chữ:
" Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta
Bao dòng chữ quay cuồng như máu vọt
Cho mê man tê điếng cả làn da"
Con người là một con vật biết chế tạo công cụ và biết chôn cất nhau khi chết (R.Garaudy)
Đỗ Lai Thuý( theo In ternet)