TÌM
HIỂU CÂU THƠ “NHÂN SINH THẤT THẬP CỔ LAI HY”
CỦA
ĐỖ PHỦ TRONG DI CHÚC CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
BÙI CHÍ THÀNH
Nguyên
G/v Đại học, CV Phòng VH Hồng Lĩnh
Trong di chúc để lại, Bác Hồ có
trích một câu thơ của Đỗ Phủ: “Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở
Trung Quốc đời nhà Đường có câu rằng "Nhân sinh thất thập cổ lai
hy", nghĩa là "Người thọ 70, xưa nay hiếm". Để
nói với toàn dân khi Bác ra đi theo các cụ Các Mác, Lê Nin thì chớ có bất ngờ,
đau thương quá! Câu “Nhân sinh thất thập cổ lai hy” thực chất là
một lời than của Đỗ Phủ về tuổi đời khó đạt tới, nên phải tranh thủ vui đi chớ
có trái với đời. Bác Hồ thừa nhận cái quy luật nghiệt ngã của tuổi tác mà “Thi
Thánh” đã phát hiện. Mình “Đã là lớp người xưa nay hiếm”, và còn
khẳng định đã vượt qua được giới hạn ấy nhưng “Tinh thần, đầu óc vẫn rất
sáng suốt”. Bác Hồ chỉ mượn cách nói của Đỗ Phủ, còn chiều hướng của tư duy
thì khác hẳn, rất tích cực, hóm hỉnh. Đó là phong cách Bác. Đó cũng là lời động
viên và muôn vàn tình thương yêu Bác để lại cho toàn dân tộc trước lúc Người đi
xa.
Câu thơ “Nhân sinh thất thập cổ lai hy”
được nhiều người thuộc, nhưng cũng rất ít người biết được xuất xứ câu thơ này
từ đâu mà có, ở trong bài thơ nào của Đỗ Phủ.
Qua đây tôi cũng xin giới thiệu vài nét về
Đỗ Phủ , nguyên tác bài thơ và bản dịch để mọi người cùng hiểu:
Đỗ Phủ (712-770) tự Tử Mỹ, tự lấy hiệu là
“ông già Thiếu Lăng”, người đời sau thường gọi là Đỗ Thiếu Lăng, người ở
huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. là Nhà thơ hiện thực vĩ đại thời thịnh
Đường. ông đã để lại cho hậu thế hơn 1.400 bài thơ, trong đó khoảng 1.000 bài
viết theo thể Đường luật. Ông cùng với Lý Bạch đã góp phần làm nên một giai
đoạn phát triển thơ ca rực rỡ thời Đường của Trung Quốc. Người đời tôn Lý Bạch
là “Thi tiên”, Đỗ Phủ là “Thi thánh”. Cuộc đời nhà thơ nghèo khổ,
gặp cảnh loạn lạc, trường trải nhiều, gần gũi với nhân dân cho nên tính nhân
dân, tính hiện thực trong thơ ông rất cao. phải chăng vì cuộc sống bần hàn
như vậy càng khiến cho thơ của Đỗ Phủ càng thêm thâm thúy và kiệt xuất chăng?
Về nội dung tư tưởng thơ ca Đỗ Phủ gồm ba mặt chủ yếu:
-
Thể hiện lòng thương vô hạn, lòng yêu mến nồng nàn đối với nhân dân. Nhà
thơ không những chứng kiến mà còn cùng sống cảnh loạn lạc, cơ hàn với nhân dân.
Thơ ca của ông vì vậy về mặt này hơn hẳn người trước về chiều sâu cũng như bề
rộng.
-
Trong thơ ca của ông đã thể hiện một lòng yêu nước nồng nàn. Ông luôn
quan tâm đến vận mệnh của đất nước, mọi nỗi vui buồn lo lắng của ông đều gắn
với vận mệnh của đất nước.
-
Trong thơ ca của ông còn thể hiện lòng căm ghét của ông đối với bọn
thống trị phong kiến hại dân, hại nước.
Cuộc đời đói rét, bệnh tật, cuộc sống
phiêu bạt dày vò mãi nhà thơ. Cuối cùng, mùa đông năm 770, nằm trên một chiếc
thuyền con trên bến sông Tương ở Lỗi Dương,
nhà thơ lìa bỏ cuộc đời ở tuổi 59 và không bao giờ ca hát nữa, nhưng đã
để lại cho đời sau những áng thơ bất hủ. Bởi ông đã “Đọc sách vở muôn quyển”
nên mới “Hạ bút như có thần”! Nguyên Chấn một thi sĩ lừng danh
lúc bấy giờ, đã viết một bài minh đề trên mộ Đỗ Phủ nói rằng:“Từ khi có thi
nhân đến giờ, không có ai vĩ đại bằng Tử Mỹ”.
Câu thơ “Nhân sinh thất thập cổ lai
hy” của ông trong bài thơ “Khúc giang nhị thủ - Kỳ nhị” làm
vào mùa xuân năm Càn Nguyên nguyên niên (758) Lúc Đỗ Phủ tuổi 46 đang đương
nhiệm chức Tả thập di (Một chức quan biên chép thêm những chổ còn thiếu
trong sách vở). Bài thơ nguyên tác như sau:
Phiên âm: KHÚC GIANG NHỊ THỦ - KỲ NHỊ
ĐỖ PHỦ
Triều hồi nhật nhật điển xuân y,
Mỗi nhật giang đầu tận tuý quy.
Tửu trai tầm thường hành xứ hữu,
Nhân sinh thất thập cổ lai hy.
Xuyên hoa giáp điệp thâm thâm hiện,
Điểm thuỷ thanh đình khoản khoản phi.
Truyền ngữ phong quang cộng lưu chuyển,
Tạm thời tương thưởng mạc tương vi.
Dịch
nghĩa: SÔNG KHÚC
(BÀI 2)
ĐỖ PHỦ
Ngày ngày bãi triều về đem cầm áo xuân,
Mỗi ngày trên sông lại uống rượu say đến hết ngày.
Nợ rượu bình thường nơi nào cũng có,
Người đời thọ bảy mươi tuổi xưa nay hiếm.
Bươm bướm luồn hoa thấp thoáng hiện,
Chuồn chuồn chấm nước dập dờn bay.
Nhắn với mọi người thời gian cảnh vật đều thay đổi,
Hãy tạm vui đi chớ có trái với đời.
Bùi chí Thành
Sau đây, tôi xin giới thiệu bản dịch thơ
của Tản Đà và bản dịch mới của tôi để chúng ta cùng tham khảo:
BẾN SÔNG II
Khởi bệ vua ra, cố áo hoài
Bến sông say khướt tối lần mai
Nợ tiền mua rượu đâu không thế?
Sống bảy mươi năm đã mấy người?
Bươm bướm luồn hoa phơ phất lượn
Chuồn chuồn giỡn nước lững lờ
chơi
Nhắn cho quang cảnh thường thay
đổi
Tạm chút chơi xuân kẻo nữa hoài.
(Tản Đà – Dịch)
BẾN SÔNG
(BÀI 2)
Cầm áo xuân sau việc nước rồi,
Đầu sông say mãi hết ngày thôi.
Đời người bảy chục từ xưa hiếm,
Nợ rượu chuyện thường có khắp
nơi,
Bướm mãi hương hoa quanh quẩn
lượn,
Chuồn dờn bóng nước lững lờ trôi.
Nhắn ai cảnh vật đều hay đổi,
Hãy tạm vui đi chớ trái đời.
(Bùi Chí Thành – Dịch)
Tìm hiểu, nguyên tác toàn văn bài thơ để
ta có cái nhìn biện chứng về tác giả, tác phẩm, trong bối cảnh Lịch sử lúc bấy
giờ. Biết được cuộc đời sự nghiệp của nhà thơ Đỗ Phủ sẽ giúp ta hiểu sâu sắc
hơn Di chúc của Bác Hồ! Bác Hồ đọc nhiều cổ thi Trung Quốc. Bác trích câu thơ
của Đỗ Phủ với nhận định: “Ông Đỗ Phủ là người làm thơ rất nổi tiếng ở Trung
Quốc đời nhà Đường”. Điều này chứng tỏ Bác rất quý trọng, đồng cảm với nhân
cách, tài năng và ý tưởng cao đẹp của Đỗ Phủ. Sự “có mặt” của Đỗ Phủ
cùng với Các Mác, Lênin trong Di chúc thể hiện tinh hoa văn hóa phương Đông và
phương Tây đã thấm sâu trong lời căn dặn cuối cùng của Bác trước lúc đi xa!
BÙI CHÍ
THÀNH – CLB THƠ ĐƯỜNG ĐỨC THỌ
TỔ 5 – TT ĐỨC THỌ - HÀ TĨNH
ĐT:0915689219, Email: thanhvhhl@gmail.com
* Bài đã được : VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
VIỆN NGHIÊN CỨU HÁN
NÔM sử dụng 2014 .