Đọc Kiều . Tác giả Hồ Chi .. Đà Nẵng
BẰNG
VIỆT . Với : Đọc Kiều “ của Hồ Chi
Những người yêu Truyện Kiều quả thật thú vị khi được
thưởng thức một “bữa tiệc thơ Đường luật” của tác giả Hồ Văn Chi vịnh Kiều, mà
như lời tác giả tâm sự ở đầu sách, thì đây xứng đáng là “niềm
tâm cảm của tác giả gửi vào Đường thi” khi đọc Truyện Kiều của đại thi
hào Nguyễn Du.
100 bài thơ Đường luật được chia làm 4 phần: phần Mở
đầu ngắn gọn; rồi đến phần về thân phận nàng Kiều; phần
về Thiện Ác quanh Kiều, hai phần này chiếm tỷ lệ cao nhất các bài
trong cả tập và cũng là hai phần có đủ các mảng “hỉ nộ ái
ố” của nhân tình thế thái, để tác giả đủ sức tung hoành khả
năng sáng tác thơ Đường luật của mình khá trọn vẹn. Một phần độc đáo nữa
là Cảm tác từ những câu Kiều, mà mỗi bài thơ thất ngôn
bát cú đều có chữ mở đầu ở mỗi dòng thơ là một chữ của cụ Nguyễn Du, để cả 8
câu hợp thành một câu nguyên vẹn trong truyện Kiều. Một sự dụng công rất đáng
kính nể và một cách chơi chữ độc đáo.
Làm thơ Đường luật rất khó, mà dám tự khuôn mình xoay quanh vào
một đề tài của Truyện Kiều lại càng khó, nó có thể bị sa vào đơn điệu, hoặc lặp
đi lặp lại một số ý tứ quen thuộc, một số thủ pháp trần thuật hoặc diễn giải
quen thuộc, thậm chí một số vốn từ quen thuộc. Tuy nhiên, tác giả Hồ Văn Chi đã
khắc phục được các nguy cơ này một cách xuất sắc. Qua 100 bài thơ, chúng ta
không thấy tác giả bị động về vốn từ, về câu chữ, về thủ pháp phải tuân thủ
cách ứng đối tề chỉnh, các niêm luật khắt khe trong thơ Đường. Trái lại, chúng
ta thấy tác giả đã “bơi” trong một biển thơ Đường luật khá thoải mái, thung
thăng, làm chủ cuộc bơi đó và còn dám tung hứng khá tự nhiên và có lúc xuất
thần!
Nếu có gì phải góp ý trong thi pháp của Hồ Văn Chi, thì tôi
chỉ có thể nói một vài hạn chế có thể rất dễ dàng khắc phục của tác giả, đó
là: Trong một vài bài, một vài câu, tác giả đã dùng
những từ ngữ có phần “hiện đại” quá, “thời sự” quá, chưa thật ăn nhập
với văn cảnh cổ xưa của Truyện Kiều. Và một nhược điểm
khác cũng khó tránh khỏi nữa là tác giả còn để sót một vài
từ non và thất vận trong một vài bài thơ. Khi làm được đến 100 bài
vịnh Kiều, thì các nhược điểm trên đây cũng là điều khó tránh khỏi, và chúng ta
hoàn toàn thông cảm với tác giả và cũng không nên đòi hỏi cầu toàn. Dẫu vậy, vì
tác giả chân thành muốn chúng ta nói thẳng nói thật. để rút kinh nghiệm
trong sáng tác, thì chúng ta cũng buộc lòng phải nói lên một vài nhận
xét thế thôi, mà không hề có ý soi mói và chê trách gì.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, nếu tôi nhớ không nhầm, thì chỉ
mới có cụ Chu Mạnh Trinh, một bậc danh nho nửa cuối thế kỷ XIX, là có một
tập 20 bài thơ thất ngôn bát cú theo thể thơ Đường luật để vịnh Kiều, như tác
giả Hồ Văn Chi dám làm hôm nay. Hôm nay, nhân đọc tập thơ Hồ Văn Chi, tôi cũng
thử đọc lại một số bài thơ cùng thể tài của cụ Chu Mạnh Trinh. Và cảm giác của
tôi hết sức bất ngờ, là trong những bài hay của tập Hồ Văn Chi, chúng
ta cũng không thấy thua kém gì nhiều so với các bài thơ
từng rất nổi tiếng xưa kia của thời thơ Đường luật còn thịnh hành và ngự trị
trên văn đàncủa cụ Chu Mạnh Trinh! Nói thế, không phải tôi dám tâng bốc
liều anh Hồ Văn Chi và xem nhẹ các áng văn chương trác việt của các
cụ danh nho ta xưa, mà chỉ muốn nói một điều, là ngay trong thời chúng ta,
khi thể thơ Đường luật không còn là thể loại thơ phổ biến trên văn
đàn đương đại nữa, thì vẫn còn những nhà thơ đầy nỗ lực và đầy dụng công,
như Hồ Văn Chi, dám khôi phục lại được một cách khá tài hoa và
chuẩn mực thú chơi thơ Đường tao nhã và cao sang, như ở
thời các cụ ta ngày xưa!
Đó quả thực là một kỳ công đáng nể trọng và
đáng biểu dương!
Nói có sách, mách có chứng, tôi xin mạn phép trích dẫn một vài
bài thơ của cụ Chu Mạnh Trinh song song với các bài tương ứng từ thi
hữu Hồ Văn Chi của chúng ta, để chúng ta cùng thấy vui mừng vì trình độ thơ
Đường luật của anh chị em chúng ta hôm nay, quả thực cũng không quá thua
kém gì cổ nhân, ngay trong đề tài hóc búa này, là trong các bài
thơ chỉ xoay quanh thân phận, hoàn cảnh và tâm trạng chìm
nổi của nàng Kiều:
Bài “Kiều khuyên Kim Trọng” của Hồ Văn Chi và bài “Kiều gặp
Kim Trọng” của cụ Chu Mạnh Trinh, có những lời những ý rất tương
xứng nhau, mỗi người một vẻ, khi đề cập một cách rất ý tứ
đến hoàn cảnh phải “gìn vàng giữ ngọc”, trong lúc hai người “đầu mày
cuối mắt”, kề sát nhau lúc cảnh vắng đêm khuya:
Đây là bài của Hồ Văn Chi:
Tiếng
đàn khi nhặt lại khi thưa
Như oán như than, khiến thẫn thờ,
Cuối mắt đầu mày, e khó cưỡng,
Vừa say chợt tỉnh, tưởng như mơ,
Tình âu yếm quá, thành lơi lả
Vẻ mặn mà hơn, dễ vật vờ!
Thưa – chớ ra điều dâu bộc nhé,
Khen người thiếu nữ chẳng ngây thơ!
Còn đây là bài của Chu Mạnh Trinh:
Dan
díu vì ai luống ngẩn ngơ,
Để ai gió đợi lại trăng chờ!
Sông Ngân đã bắc cầu Ô Thước,
Phận liễu còn e trận gió mưa!
Lựa mối tơ tình năm ngón dạo,
Dập lò lửa dục, một lời thưa,
Đuốc hoa muốn vẹn niềm băng tuyết,
Đừng để trăng hoa khéo ỡm ờ!
Tới đoạn Kiều bị bán vào lầu xanh và bị Mã Giám Sinh làm nhục, cả 2 tác
giả Hồ Văn Chi và Chu Mạnh Trinh đều có những lời thơ đầy xót xa, căm phẫn, với
cách thể hiện mỗi thời một khác, dù rất cám cảnh tuy bút lực vẫn
đầy kìm nén.
Đây là bài của Hồ Văn Chi, “Kiều bị thất tiết”:
Giận
kẻ phàm phu quá phũ phàng,
Ôi! Còn chi nữa hỡi tình lang,
Hoa tàn nhị rữa, bao cay đắng,
Ruột thắt châu tuôn, quá bẽ bàng!
Phí thuở e hồng cùng thẹn lục,
Hoài công giữ ngọc với gìn vàng!
Dao này- những muốn liều sinh tử,
Chỉ sợ song tình phải lụy mang!
Còn đây là bài của Chu Mạnh Trinh:
Sa
chân đã trót xuống thuyền buôn,
Cả giận, thôi rồi phải hết khôn!
Non nước, còn chi lời ước cũ,
Phong trần, liều với mũi dao con!
Hoa gieo dưới trướng, hồn man mác,
Gió thổi bên tai, giọng ngọt ngon,
Mới biết tay già là tổ bợm
Dù ai bóp bẹp vẫn vo tròn!
Tôi xin trích dẫn bài thứ ba, là bài về Từ Hải. Hồ Văn Chi và Chu Mạnh
Trinh đều có những câu thơ hào sảng tả khí phách, con người Từ Hải,
tuy nhiên, Hồ Văn Chi thì trách Từ Hải lụy sắc, nghe lời Kiều mà đến
nỗi tan tành mộng bá vương, còn Chu Mạnh Trinh thì điềm đạm
hơn, không trách móc gì Kiều, mà chỉ nói rằng, nhờ số mệnh đưa
đẩy theo chiều hướng ấy, mà sau khi Từ Hải chết, Kiều tự vẫn,
may nhờ có quả phúc, được Giác Duyên cứu vớt, như trình tự logic
của thuyết “tài mệnh tương đố”, mới kết thúc nổi vòng
truân chuyên 15 năm lưu lạc, được“rút tên ra khỏi sổ đoạn trường”. Đây là
bài của HồVăn Chi về Từ Hải:
Quyết
chí tranh hùng mộng bá vương,
Uy danh một cõi thật phi thường,
Nghe lời diễn giải, chiều thê tử,
Mắc kế chiêu hàng, bỏ giáp thương,
Uổng mối tình duyên, nhiều tháng đẹp,
Hoài công sự nghiệp, mấy năm trường,
Phù Sai, Lã Bố… thời xưa cũng
Lụy sắc, tan tành mộng bá vương!
Còn đây là bài của Chu Mạnh Trinh:
Phút
bỗng đem thân bỏ chiến tràng,
Ba quân ngơ ngác ngọn cờ hàng!
Xá chi bèo bọt, thân vì nước,
Thẹn với non sông, thiếp phụ chàng!
Cung oán nỉ non đàn bạc mệnh,
Duyên may run rủi lưới Tiền Đường!
Mười lăm năm ấy, người trong mộng,
Mới rút tên ra sổ đoạn trường!
Thật là, mỗi người một vẻ, cách nhận thức và lý giải tuy khác nhau,
nhưng cùng trên một chủ nghĩa nhân văn và tổng kết lịch sử và số phận theo quan
niệm của từng thời đại. Và đây thực sự là những bài Đường thi đúng nghĩa!
Hai bài thơ cuối, khép lại tập thơ, là “ Bồng Lai mới” và “ Tự
trào”, không viết về Kiều, mà là viết về thắng cảnh Bà Nà và tâm trạng riêng
của tác giả, nhưng cũng là những bài thơ luật Đường rất chuẩn, lại xuất phát từ
2 câu Kiều mà viết thành, có không khí và cảnh vật, có tâm trạng và một chút trào
lộng hóm hỉnh, cũng là những bài thú vị khi điểm xuyết các bài thơ đáng lưu ý
trong tập.
Xin chân thành chúc mừng tác giả Hồ Văn Chi cùng đóng
góp mới của anh với Thơ Đường luật đương đại. Mong anh sẽ còn đạt được nhiều
thành công hơn nữa!
B.V ( Theo thôn minh
triết)