Bài xướng: TAM
ĐẢO
(Nguyên tác Đàm
Văn Nghị)
Ơ
kìa Tam Đảo diệu kỳ thay
Mong ước nhiều năm đã gặp đây
Đồi núi trập trùng sương cõng gió
Suối khe e ấp nắng hôn cây
Nhấp nhô cao thấp nhà chen dãy
Uốn lượn gần xa phố quyện mây
Thưởng nguyệt cùng em trên thác Bạc
Dùng
dằng tình gửi mãi nơi đây.
Bài họa: TAM ĐẢO
(Họa nguyên vận – Tác giả Nhuệ Phong)
Tam Đảo ơ kìa kỳ diệu thay
Từ lâu ao ước tới nơi đây
Trập trùng đồi núi sương mờ phủ
E ấp suối khe nắng dãi cây
Cao thấp nhấp nhô nhà thoáng gió
Xa gần thấp thoáng phố chen mây
Ly trà thưởng nguyệt trên cung Quảng
Thả tứ, neo vần thật đắm say.
KẺ CHÍN LẠNG, NGƯỜI MỘT
CÂN
Nguyễn Công Thịnh
Hội viên Hội Nhà văn Hà Nội
Hầu hết các thi huynh, thi hữu đã sáng
tác và khảo nghiệm thơ Luật Đường đều hứng thú cách chơi xướng – họa. Có thể
nói là một cách chơi tao nhã, uyên bác, tri âm tri kỷ và càng thú vị khi bài họa
ngang bằng hoặc hay hơn bài xướng về ý, tứ, sự đồng cảm hoặc ít nhất có một vài
từ nổi trội, độc đáo hơn.
Ở đây nhà thơ Nhuệ Phong đã thể hiện
được điều đó, làm thỏa mãn đông đảo bạn đọc gần xa. Trước hết chúng ta cùng tìm
hiểu ở Tam Đảo có gì đặc biệt để cả hai tác giả cùng thốt lên lời cảm thán “Kỳ diệu – kỳ diệu thay!”.
Tam Đảo là danh lam miền sơn cước thuộc
tỉnh Vĩnh Phúc. Trước đây, thời đế quốc Pháp xâm lược nước ta hay triều đại phong
kiến cai trị, từ người Pháp đến vua Bảo Đại đều chọn nơi đây làm nơi xây dựng
nhà nghỉ mát. Đến sau này Thiền Viện Trúc Lâm cũng chọn nơi này xây dựng Thiền
Viện càng đắc tâm, đắc đạo.
Hai câu mở bài của bài họa:
“Tam Đảo ơ kìa kỳ diệu thay
Từ lâu ao ước tới nơi đây”
Thể hiện sự đồng cảm, chờ mong cùng
rung cảm trước cảnh đẹp mà lâu nay cùng đợi chờ. Có lẽ vì vậy mà tác giả Nhuệ
Phong đã chọn cách họa nguyên vận chứ không chọn cách họa “loạn vận” hay “nương
vận” mượn vần như một số người từng làm để diễn đạt một nội dung khác.
Theo cách trực phá, mở cửa ra nhìn thấy
dãy thanh sơn hiện lên trước mắt, thỏa lòng ao ước bấy lâu nay được thăm nơi
núi non hùng vĩ, muôn vàn muông thú hót ca, nơi có khí hậu ôn hòa, nơi có:
“Trập trùng đồi núi sương mờ phủ
E ấp suối khe nắng dãi cây”
Qua hai câu trạng, chúng ta đã thấy sự
cách biệt của bài họa. Nếu cho vế một của bài xướng và bài họa bằng nhau vì chỉ
đảo từ thì chất thơ đã khác ở vế hai của bài họa. Rõ ràng “sương cõng gió” đã
hay nhưng không bằng “sương mờ phủ”, vì sương có gió, sương tan nhanh. Còn
sương mờ phủ thì còn đọng lại dài hơn và dày hơn thành màn sương và lớp sương.
Tương tự “nắng hôn cây” là nắng nhẹ không bằng “nắng dãi cây” là nắng nhiều, nắng
khắp và có thể mới làm tan dần màn sương phủ để lộ ra đồi thông đứng thẳng đang
reo như cố nhân nhà thơ Nguyễn Công Trứ đã viết:
“Lưng trời vách đá cheo leo
Ai không sợ rét thì trèo với
thông”
Đến hai câu luận, chúng ta càng thấy
thú vị hơn:
“Cao thấp, nhấp nhô nhà thoáng gió
Xa gần thấp thoáng phố chen
mây”
Cũng bằng cách so sánh như trên, chúng
ta thấy vế một của bài xướng và bài họa bằng nhau (bằng cách đảo từ), thì vế
hai của bài họa có sự hơn hẳn về ý. Chúng ta thấy dãy nhà ven sườn núi nhấp nhô
song rất mát mẻ vì “thoáng gió” tạo
thành đường phố chạy dài tận phương trời xa thẳm, phố cao bởi có mây vờn chứ
không chen chúc, càng tô điểm cho Tam Đảo thêm phần lộng lẫy hơn.
Tới hai câu kết với cảnh đấy người
đây:
“Ly trà thưởng nguyệt trên cung Quảng
Thả tứ neo vần thật đắm say”
Chẳng những tác giả không làm mất đi sự
đồng cảm của tác giả bài xướng là cùng “thưởng nguyệt”, mà còn cho ta thấy tâm
thế của tác giả ở vị trí và mức độ khác nhau. Một bên là “cùng ngắm với em” và dùng dằng đi chẳng dứt, còn một bên là tác giả
ngồi bên ấm trà ngắm ả Hằng Nga trên cung trăng để làm thơ: “Thả tứ, neo vần thật đắm say”, bằng lời
hay, ý đẹp, gợi nhớ đến cụ Tản Đà đã phác họa bức tranh sơn thủy về Tam Đảo nơi
đây:
“Ngàn năm giao ước kết đôi
Non non nước nước khôn nguôi
lời thề”
Có thể nói chỉ năm mươi sáu chữ nhưng
mỗi chữ có một chức năng riêng. Cả hai tác giả đã in đậm Tam Đảo thành bức họa
phong sương đượm vẻ thiên nhiên kỳ thú. Đặc biệt bài họa đã đem lại cho bạn yêu
thơ một cảm nhận đầy hứng thú về xướng họa thơ Luật Đường. Tuy nhiên, cả hai
bài xướng, họa đều có điểm chưa hoàn hảo. Về bài xướng, có lỗi điệp vần “đây”, còn bài họa có lẽ vì tránh lỗi điệp
vần đành chịu lỗi lệch vần ở câu cuối. Lỗi cố ý này có thể thông cảm được. Quả
là hai tác giả “kẻ chín lạng, người một
cân”.
N.C.T