Cảm nhận về bai thơ
"Cánh võng
Trường Sơn" của Hồ Văn Chi.
"Cánh võng
Trường Sơn" được viết vào đầu tháng 5/2015 (thể thất ngôn bát cú) theo luật thơ
Đường , là một bài thơ
hay. Không phải vì cảm tình hoặc khen để động viên tác giả mà bởi vì thực sự đó là bài thơ nhiều cảm xúc, dễ đi vào lòng người đọc.
Đối với tôi, cả đời lính gắn bó với Trường Sơn, chưa
thấy
bài thơ
Đường luật nào viết về Trường Sơn
mà hay như vậy. Bài thơ
đã đưa tôi ngược dòng thời gian về quá khứ, hồi tưởng lại cuộc trường chinh cách đây đã hơn
bốn
mươi năm của người chiến sỹ Giải phóng quân xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước.
"Một chiếc ba lô.../một túi lương khô/ một tấm võng dù..." với đôi dép cao su,
chiếc gậy Trường Sơn... lên đường
ra trận.
Ở đây, bài thơ "Cánh võng Trường Sơn" rất khái quát, nhẹ nhàng mà sao sâu sắc, lắng đọng đến tận tâm hồn tôi như
vậy.
Cánh võng Trường Sơn
Tựa chiếc thuyền con, nhuốm gió sương
Đung đưa gợi nhớ cảnh quê hương
Nâng niu giấc ngủ qua đêm
lạnh
Gìn dưỡng đôi chân
vượt dặm trường
Một mảnh trăng liềm, tràn cảm xúc
Hai đầu đất nước, nặng tình thương
Rời xa cuộc chiến nhiều năm tháng
Nghĩ đến ngày xưa
lại vấn vương
11/5/2015. Hồ Văn Chi.
Đọc xong bài
thơ, hồi tưởng lại với bao nhiêu kỷ niệm lại hiện lên trong tâm trí một thời lính trận, làm tôi rưng
rưng, đôi mắt cay xè và bản thảo bị nhòe đi trong từng giọt nước mắt; sự gợi nhớ buồn vui lại có dịp dâng trào:
"Ta đi trong gió/
Ta đi trong mưa...
Là một bài ca, viết thêm trang sử mới."
Nhớ đến lần tôi nhận được thư
nhà và tôi đã bật khóc vì nhớ nhà, nhớ cảnh quê hương khi đang ngồi trên chiếc võng đung đưa...
Hai câu mở đầu:
"Tựa chiếc thuyền con, nhuốm gió sương
Đung đưa
gợi nhớ cảnh quê hương"
Tác giả đã rất tinh tế khi nhìn nhận cánh võng "tựa chiếc thuyền con". Sao
không viết: chiếc võng, cái võng, cái nôi, chiếc thuyền nan, chiếc tàu lá...! Viết như
thế,
bình thường quá, cụ thể quá! Với bút pháp tài hoa của mình, tác giả đã nhân cách
hoá, phát hiện ra "Tựa chiếc thuyền con, nhuốm gió sương". Cánh
võng tựa con thuyền của chiến sỹ ta vượt thác bạc đưa
hàng ra phía trước mặt trận của một thời Trường Sơn huyền thoại. "Nhuốm gió sương", ở đây là tưởng tượng; lời thơ
đâu có nói đến cả nước lên đường, binh đoàn ra trận, điệp điệp, trùng trùng, con
thuyền
lướt trên dòng sông chảy xiết gập ghềnh sóng gió, kể cả vượt qua bom đạn trong năm tháng chiến tranh chống Mỹ cứu nước...mà chỉ gói gọn trong ba từ "nhuốm gió sương", thật không dễ gì nói được! Thế mà đã hơn bốn mươi năm sau chiến tranh, nhà thơ Hồ Văn Chi đã nói hộ, gọn ghẽ tưởng chừng không tin nổi. "Nhuốm gió sương" là vậy! Tác giả đã mượn cái võng và Trường Sơn có thực để nâng lên, để nói lên cái vĩ đại của cả một dân tộc, cả một thế hệ trai tráng lên đường đánh giặc bằng câu thơ gắn gọn, êm đềm, ẩn dụ, độc đáo "Tựa chiếc thuyền con". Tôi lại liên tưởng con thuyền ở đây không phải là con thuyền bình thường, mà "con
thuyền"
đưa ta vào vũ trụ, đưa ta đến các hành tinh sao
Hoả,
sao Mộc...của giải Ngân Hà. Nhuốm, ở đây mới hay làm sao! Đến chân trời mới "độc lập, tự do, hạnh phúc" tất phải nhuốm gió sương. Chính những người chiến sĩ lái con thuyền đó chứ không phải là ai khác.
"Đung đưa gợi nhớ cảnh quê hương". Hai từ "đung đưa" mới thi vị làm sao! Chiếc lá đung đưa trước gió, chiếc thuyền đung đưa
trên sóng nước, hay cái võng đung đưa!
Ai hiểu
thế
nào thì hiểu. Thế mới quả thật là xuất chúng! Tâm hồn "đung đưa", suy tư bao nhiêu trong cuộc chiến, nhưng cái cuối cùng là quê hương! Quê hương ở đây là đất nước, là Tổ quốc cần được giải phóng. Trong đó có ông bà,
cha mẹ,
anh em ta và người yêu đang chờ đợi!
Rồi bốn câu tiếp:
"Nâng niu giấc ngủ qua đêm lạnh
Gìn dưỡng đôi chân vượt dặm trường
Một mảnh trăng liềm, tràn cảm xúc
Hai đầu đất nước, nặng tình thương"
Hai cặp đối thực và luận tràn đầy chất thơ
và thật
mượt mà, làm người ta quên đi đây là thơ mà hai cặp đối của thơ
Đường luật phải được viết chỉn chu, nhưng tác giả đã viết sâu sắc như vậy, nhuần nhuyễn như vậy, và chiếc võng đã được tác giả nhân cách hoá, thổi hồn vào đó để nâng niu giấc ngủ người chiến sĩ, như
trăng lưỡi liềm giữa Trường Sơn bao la soi tỏ để người chiến sĩ bước đi trong đêm
tối.
Nhìn trăng lưỡi liềm cũng giống như
cánh võng, quyện vào thơ.
Cánh võng được mắc lên bởi hai đầu, tác giả lại đưa
vào thơ: "Hai đầu đất nước, nặng tình thương", thể hiện sự liên tưởng của tác giả đến đất nước Việt Nam.
Hai đầu ở đây là Hà Nội - Sài Gòn của Tổ quốc ta hình cong chữa S.
Giải đất miền Trung như cánh cung, như trăng lưỡi liềm, "cong như
cánh võng". Tác giả đã nói lên tình cảm của hậu phương lớn miền Bắc XHCN và miền Nam do Mỹ, Nguỵ tạm chiếm. Tình cảm đó ví như hai đầu cánh võng, tình thương
của
hậu
phương lớn đối với miền Nam ruột thịt. Ai đã từng trải ở Trường Sơn như lớp người trong thời kỳ chống Mỹ mới thấm thía:
"Rời xa cuộc chiến nhiều năm tháng
Nghĩ đến ngày xưa lại vấn vương"
Thật vậy, hồi tưởng lại sau 41 năm kể cả một số người trong cuộc cũng đã dần dà quên đi quá khứ hào hùng. Trong thời bình, bộn bề bao chuyện mưu sinh, một số người làm thơ
thường chuyên tâm viết về cái mới trong cuộc sống thường ngày và đi du lịch.
Giờ đây, ta đi tham quan
trên con đường Trường Sơn- đường Hồ Chí Minh thảm nhựa, ngồi trong xe mát lạnh từ Hà Nội vào thành phố Hồ Chí Minh chỉ mất vài ngày. Thế mà thế hệ chúng tôi, những người lính Trường Sơn
phải
đi hết nửa cuộc đời mới đến được Sài Gòn bằng chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, để có được ngày 30 tháng Tư
năm 1975 toàn thắng.
"Rời xa cuộc chiến nhiều năm tháng".
Cả một thế hệ, với lý tưởng "Xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước". Bài thơ
"Cánh võng Trường Sơn" để lại một dấu ấn cho người đọc chỉ bằng 56 từ của một bài thơ
Đường luật thật mượt mà sâu sắc. Bằng nghệ thuật tài hoa, tác giả đã diễn đạt đến ngưỡng đỉnh cao, làm người khó tính cũng phải thán phục. Những ai chê thơ
Đường luật "là cổ", là khắt khe, luật bằng trắc, đối ngẫu, ghép vần, ghép chữ khô khan...Nếu đã đọc bài thơ
này thì sẽ có đánh giá khác hoàn toàn, bị cuốn hút với bài thơ từ đầu đến cuối bởi sự nhuần nhuyễn trong câu từ như vốn có trong người tuôn chảy ra thành thơ,
không bị gò bó trong khuôn mẫu ràng buộc.
Bài thơ
luật
Đường "Cánh
võng Trường Sơn" của tác giả Hồ Văn Chi đã góp bút bằng trí tuệ, bằng sự đam mê của mình, cống hiến cho đời một bài thơ
thật
xuất
thần! Người đọc trong thời gian tới đang chờ đợi sự thăng hoa tiếp theo sau
"Cánh võng Trường Sơn"
của
anh.
. Phan Văn Thắng - Cẩm Tú
K526/17 Trưng
Nữ
Vương, Hải Châu, Đà Nẵng.
Điện thoại: 0983 526 117