Nhà thơ Xuân Diệu từng nói rằng: "Tản
Đà là thi sĩ đầu tiên, mở đầu cho thơ Việt Nam hiện đại. Tản Đà là người thứ
nhất đã có can đảm làm thi sĩ, đã làm thi sĩ một cách đường hoàng, bạo dạn, dám
giữ một cái tôi”. Bằng bản lĩnh của mình, Tản Đà mang đến một luồng sinh khí
mới cho nền văn học Việt Nam. Thi sĩ trực tiếp thể hiện cái tôi bản ngã của
mình một cách hết sức độc đáo và mới mẻ. Và "Hầu Trời” là một trong những
bài thơ kết tinh những nét riêng độc đáo đó.
Như Hoài Thanh đã nói "Tiên sinh là người của hai thế kỉ”, Tản Đà
là người đã đặt được dấu gạch nối giữa văn học truyền thống và văn học hiện
đại, là người "dạo bản đàn mở đầu cho một cuộc hòa nhạc tân kì đương sắp
sửa”(Hoài Thanh). Tản Đà tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sống khoáng đạt và
đã đeo "túi thơ” đi khắp cuộc đời mình. Là một cây bút tiêu biểu của văn
học Việt Nam giai đoạn giao thời, ông để lại khá nhiều tác phẩm cho đời. Trong
đó đáng kể là "Hầu Trời” được trích trong tập Còn chơi (1921). Bài thơ đã
thể hiện rõ cái tôi cá nhân của Tản Đà thông qua sự việc lên thiên đình đọc
thơ.
Trong sáng tác văn học, không phải ai
cũng thể hiện được cái tôi của mình trên trang viết. Cái tôi gắn liền với cá
tính sáng tạo của một người cầm bút. Điều đó đòi hỏi người viết phải thể hiện
được cái riêng có giá trị thẩm mĩ cao, có khả năng đóng góp tích cực cho nền
văn học chung.
Tản Đà-nhắc đến thi nhân là nhắc đến
"xê dịch, ngông và đa tình”. Ba yếu tố đủ để làm nên một cái tôi riêng
trong làng thơ Việt Nam. Nhưng có lẽ, cái tôi độc đáo của nhà thơ đã thể hiện
trong "Hầu Trời” là một cái tôi ngông rất lạ. "Ngông” không phải chỉ
định một kiểu ứng xử xã hội và nghệ thuật khác. Cái ngông ở đây được nói đến là
ngông dựa trên khả năng mình có, nghĩa là chỉ những người tài năng, tự tin bởi
cái tài của mình, tự tin để khẳng định nó với đời mới là cái ngông được người
đời chấp nhận. Người ngông tạo cho mình những phong cách riêng, khác người
nhưng để lại những ấn tượng sâu đậm.
Chất ngông thương được thể hiện bởi các
nhà văn, nhà thơ có ý thức cao độ về cái tài và cái tình. Với cái tài đó, họ
mang ra phục vụ cho đời nhưng cũng là để "đóng dấu” hình ảnh của mình với
thời gian. Họ có thể ngông bởi họ có tài, họ có cái để hãnh diện, để thách thức
với cuộc đời, với người đời và cũng bởi trong cuộc sống, mỗi con người họ đã là
một tính cách riêng, một sự phá cách không thể trộn lẫn với một người nào khác.
Và cái ngông ấy trong "Hầu Trời” đã tạo ra cho nhà thơ một cái tôi độc
đáo.
Nhà thơ ý thức sâu sắc về tài năng của
mình. Vì vậy tiếng ngâm thơ "vang cả sông Ngân Hà” khiến Trời mất ngủ là ở
chỗ ấy.
"Đêm
qua chẳng biết có hay không
Chẳng
phải thảng thốt không mơ mòng
Thật
hồn! Thật phách! Thật than thể
Thật
được lên tiên sướng lạ lùng!”.
Cái duyên được lên hầu Trời gắn liền
với câu chuyện văn thơ, gắn liền với những phút cảm hứng của nhà thơ. Chuyện
tưởng tượng nhưng như thật, có lẽ cái tôi độc dáo của Tản Đà là ở chỗ vào đề tự
nhiên, hấp dẫn nhưng có duyên. Để thế gian thấy tài năng của nhà thơ đã khó vậy
mà ngay đến Trời còn say mê, chư tiên yêu thích thì thật lạ lùng. Vậy mới thấy
được cái ngông của nhà thơ biểu hiện mạnh mẽ qua bài Hầu Trời. Đã có dịp được
lên Thiên đình, vì thế Tản Đà tranh thủ "quảng cáo” tài năng của bản thân:
"Dạ
bẩm lạy Trời con xin đọc
Đọc hết
văn vần sang văn xuôi
Hết văn
thuyết lí lại văn chơi
Đương
cơn đắc ý đọc đã thích
Chè
Trời nhấp giọng càng tốt hơi.”
Tác giả đọc thơ rất tự tin, khoe tài
của mình, đọc cao hứng và nhập thân vào tác phẩm. Qua đó bộc lộ cái tôi in đậm
phong cách cái tôi cá nhân tự ý thức của chính ông. Sẵn tiện nhà thơ giới thiệu
luôn những tác phẩm của mình:
"Bẩm
con không dám man cửa Trời
Những
áng văn con in cả rồi
Hai
quyển Khối tình văn
thuyết lí
Hai Khối tình con là văn chơi
Thần tiền,
Giấc mộng văn tiểu thuyết
Đài gương,
Lên sáu văn vị đời
Quyển Đàn bà Tàu lối văn dịch
Đến
quyển Lên tám nay
là mười
Nhờ
Trời văn con còn bán được
Chửa
biết con in ra mấy mươi?”
Nhà thơ có vẻ rất đắc ý bởi ông ý thức
được cái tài của mình. Khẳng định bản ngã cái tôi phóng túng, ý thức tài năng
giá trị của mình giữa cuộc đời. Trước Tản Đà các nhà nho tài tử đều hết thảy
thị tài nhưng chữ tài mà họ nói tới nhiều khi mang một nội hàm khá rộng. Họ
không dám nói đến cái hay, cái "tuyệt” của thơ mình, hơn nữa, lại nói
trước mặt Trời. Rõ ràng ý thức cá nhân ở nhà thơ đã phát triển rất cao độ.
Chính vì vậy mà đến Trời cũng phải tán thưởng:
"Văn
dài hơi tốt ran cung mây!
Trời
nghe, Trời cũng lấy làm hay.
Tâm như
nở dạ, Cơ lè lưỡi
Hằng
Nga, Chức Nữ chau đôi mày
Song
Thành, Tiểu Ngọc lắng tai đứng
Đọc
xong một bài cùng vỗ tay.”
"
Trời lại phê cho: Văn thật tuyệt!
Văn
trần được thế chắc có ít
Nhời
văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn
hung mạnh như mây chuyển!
Êm như
gió thoảng, tinh như sương!
Đầm như
mưa sa, lạnh như tuyết!”
Chính vì tình yêu văn chương, ông mới
tự tin sáng tác, chuyển tải những tư tưởng tình cảm mới mẻ vào trang thơ. Dường
như với ông, hầu Trời là khoảnh khắc đẹp nhất. Vì thế ông mới đem cái tài của
mình để thể hiện trước Trời cùng chư Tiên. Và lúc này quan niệm mới mẻ của ông được
bộc lộ: sáng tác văn chương là một nghề. Dù không biểu hiện trực tiếp nhưng
đằng sau các câu chữ ta vẫn thấy có một sự hình dung khác trước về hoạt động
tinh thần đặc biệt này. Với Tản Đà, văn chương là một nghề kiếm sống mới, có
người bán kẻ mua, có thị trường tiêu thụ và bản thân thị trường đó cũng hết sức
phức tạp, không dễ chiều. Đặc biệt hơn dương như nhà thơ đã ý thức được sự cần
thiết phải chuyên tâm với nghề văn, phải có vốn để theo đuổi nó:
"Nhờ
Trời văn con còn bán được”
"Vốn
liếng còn một bụng văn đó”
Thật ngang tang khi thi sĩ muốn
"gánh văn” lên Trời để bán.
"Chư
tiên ao ước tranh nhau dặn:
-"Anh
gánh lên đây bán chợ Trời!””
Làm náo động thiên cung bằng những lời
văn giàu thay lắm lối, nay nhà thơ còn muốn văn của ông được lan rộng cung đình
để mọi người biết đến ông- một tài năng thực thụ của trần thế. Thế mới thấy
được cái tôi mạnh mẽ đến nhường nào.
Qua bài thơ "Hầu Trời” không dừng
lại ở đó, Tản Đà còn vạch ra thực tế phũ phàng: tài năng không thống nhất với
số phận. Ở cuộc đời nhà thơ thiếu tri âm, tri kỉ và bất hòa với cuộc đời:
"Văn
chương hạ giới rẻ như bèo
Kiếm
được đồng lãi thực rất khó
Kiếm
được thời ít tiêu thời nhiều
Làm mãi
quanh năm chẳng đủ tiêu.”
Vì vậy ông khát khao lên Trời đọc thơ
và tìm được người tri âm. Chỉ có Trời và chư tiên mới hiểu cái hay, cái đẹp
trong thơ ông. Và lời Trời khen hắn là sự thẩm định có sức nặng nhất, không thể
bác bỏ, nghi ngờ. Đúng là lối tự khẳng định rất ngông ngạo của nhà thơ.
Để Trời hiểu thơ, khen văn thơ tuyệt,
Tản Đà liền đó "tâu trình” rõ ràng thân thế của mình, phù hợp hoàn toàn
mạch chuyện:
"Dạ
bẩm lạy Trời con xin thưa
Con tên
Khắc Hiếu họ là Nguyễn
Quê ở Á
châu về Địa Cầu
Sông Đà
núi Tản nước Nam Việt”.
Khác người xưa, Tản Đà đã tách tên, họ
theo một kiểu công khai lý lịch rất hiện đại, lại còn nói rõ bản quán, châu
lục, tên hành tinh. Qua đó ông thể hiện niềm yêu nước tha thiết, đầy tự hào về
bản thân, ý thức cá nhân tự tôn dân tộc sâu sắc. Một cái tên- tên thật chứ
không phải tự hay hiệu- mà được nói ra trịnh trọng đến vậy hẳn nhà thơ phải
thấy có một giá trị không thể phủ nhận gắn liền với nó. Cũng qua câu thơ, tác
giả ngầm giới thiệu bút hiệu của mình. Tản Đà là con người khoe tài, thị tài và
rất ngông cho nên trước chư tiên không bao giờ kiềm chế mà luôn thể hiện hết
tài hoa của mình.
Từ đầu đến cuối nhà thơ đều tự tin về
tài năng của bản thân và một lần nữa Tản Đà lại khẳng định rất "ngông”,
của kẻ vốn đã "ngông” khi nhận mình là "trích tiên” bị đày xuống hạ
giới vì tội ngông. Nhà thơ khẳng định tài năng và thân phận "khác thường
của mình”.
Sự khác thường đặc biệt này còn nằm ở
việc thi sĩ được thừa nhận là một người nhà Trời, được sai xuống hạ giới thực
hiện một sứ mệnh cao cả”việc thiên lương của nhân loại”, "Trời rằng không
phải Trời đày, Trời định sai con một việc này, Là việc "thiên lương” của
nhân loại, Cho con xuống thuật cùng đời hay”. Một lần nữa cái ngông ấy lại được
thổi vào trong ý thơ. Nhưng cái ngông ấy chẳng qua là vì nó đối lập lại với cả
xã hội bất công, vì ông phải đi làm công việc là tìm lại thiên lương vốn đang
bị mai một của con người:
"Hai
chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ
Dám xin
không phụ Trời trông mong”
Nhà thơ ý thức về nhân cách, một nhân
cách vượt ra khỏi mọi sự ràng buộc về danh lợi. Nó đối lập với cái xã hội bất
công vụ lợi, chạy theo đồng tiền và danh lợi thời bấy giờ.
Cuối cùng nhà thơ vẫn muốn khẳng định,
tự khen thơ mình. Thơ thi nhân chẳng những đẹp mà còn ẩn chứa những ý niệm cao
siêu về cuộc đời, về thiên lương, nhân sinh thế giới quan… Tóm lại là tất cả
những gì nhân loại cần có để vươn đến cái chân- thiện- mỹ. Thoát ra khỏi quan
niệm "thi dĩ ngôn chí” , Tản Đà thực sự thăng hoa trong thế giới nghệ
thuật, bộc lộ cảm xúc cái tự do cá nhân mới mẻ của riêng mình.
Kế thừa nét ngông của truyền thống,
song trong sự ngông của Tản Đà, người ta không thấy cái ngông đến mức lấy thú
ăn chơi hưởng lạc có phần tiêu cực như một cách để đối lại với đời như Nguyễn
Công Trứ. Và cũng không thấy cái ngông trong việc đi tìm một phong cách, một
lối thể hiện riêng của người tôn thờ cái đẹp như Nguyễn Tuân. Cái ngông của Tàn
Đà là cái ngông của một người chìm đắm trong mộng: mộng về cuộc đời, mộng về sự
đổi thay, say để mộng, mộng để ngông với người đời. Nhưng có thể thấy rằng, họ
gặp nhau ở một điểm cơ bản mà nếu như thiếu nó thì sẽ không thể "ngông” được
đó là cái tài, cái tình và ý thức về cái tôi bản ngã của chính mình. Họ làm nên
những phong cách nghệ thuật riêng độc đáo, nhưng ấn tượng đặc biệt, không thể
nào phai trong lòng người đọc và không lẫn với cái ngông của nhà thơ nào khác.
Bài thơ "Hầu Trời” đã kết tinh cái
tôi của Tàn Đà. Nhưng không chỉ trên phương diện nội dung, những nét độc đáo và
mới mẻ còn làm nên cái tôi trong nghệ thuật. Có lẽ "Hầu Trời” có vẻ quá
dài nhưng chính điều đó lại tạo cho bài thơ giàu yếu tố tự sự. Hơn thế, nguyên
tắc tôn trọng dòng chảy tự nhiên,sống động của cảm xúc cá nhân, cá thể của thơ
cho phép nhà thơ thoát khỏi những ràng buộc quá khắt khe về hình thức để tự do
vẫy vùng thể hiện tư tưởng tình cảm của mình. Thể thơ thất ngôn trường thiên
được viết một cách phóng túng, tự do theo cá tính riêng của nhà thơ.
Bên cạnh đó, "Hầu Trời” còn đáng
chú ý với hiện tượng chia khổ, các khổ có độ dài khác nhau tạo nên cảm xúc tự
do và nét mới trong thơ văn. Cách thể hiện của Tản Đà đã vượt ra khỏi quy pham
nội dung và nghệ thuật, muốn phá cách để thể hiện rõ cái tôi của ông.
Nét độc đáo trong cái tôi của Tản Đà là
sự dung hòa nhiều yếu tố khác nhau. Tất cả tạo nên ở thi sĩ tính cách của một
nhà Nho tài tử, đa tình, ngông và xê dịch. Cái cũ và mới, xưa và nay đan xen
đưa Tàn Đà trở thành người nối kết hai thời đại thi ca, trở thành ngôi sao sáng
với vẻ đẹp rất riêng trên bầu Trời văn học Việt Nam.
Nguồn: In
ter net