Nguyễn Du
QUỶ MÔN QUAN
(Ải Quỷ Môn)
Liên
phong cao sáp nhập thanh vân,
Nam bắc quan đầu tựu thử phân.
Như thử hữu danh sinh tử địa,
Khả liên vô số khứ lai nhân.
Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ,
Bố dã yên lam tụ quỷ thần.
Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt,
Kỳ công hà thủ Hán tướng quân.
Dịch nghĩa
Núi
liên tiếp, cao vút tận mây xanh.
Nam bắc chia ranh giới ở chỗ này
Là nơi nổi tiếng nguy hiểm đến tính mạng.
Thương thay, bao nhiêu người vẫn phải đi về qua đây.
Bụi gai lấp đường, mãng xà, hổ tha hồ ẩn nấp.
Khí độc đầy đồng, quỷ thần mặc sức tụ họp.
Từ thuở xa xưa, gió lạnh đã thổi bao đống xương trắng.
Chiến công của tướng nhà Hán có gì đáng khen!
Nguồn: Thơ
chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học, 1965
Dịch
thơ
Núi
trập trùng giăng đỉnh vút mây,
Ải chia Nam Bắc chính là đây.
Tử sanh tiếng đã vang đồng chợ,
Qua lại người không ngớt tháng ngày.
Thấp thoáng quỉ đầu nương bóng khói,
Rập rình cọp rắn núp rừng cây.
Bên đường gió lạnh luồng xương trắng,
Hán tướng công gì kể bấy nay?
Quách Tấn dịch (13/6/ 2005)
LỜI BÌNH
Đại thi
hào Nguyễn Du (1765-1820 ) là ngôi sao sáng chói nhất trong bầu trời văn học
Việt Nam thời trung đại, Danh nhân văn
hoá nhân loại đầu tiên của nước
ta được thế giới công nhận năm 1965. Ngoài những kiệt tác thơ Nôm như Truyện
Kiều, Văn chiêu hồn..., ông còn có các tác phẩm viết bằng chữ Hán thể hiện
giá trị tư tưởng và nghệ thuật đặc sắc. Trong đó có bài "Quỷ Môn Quan" rút từ tập "Bắc hành tạp
lục" , ghi chép của tác giả trong chuyến đi sứ nhà Thanh.
Bài thơ
là bức tranh sống động về phong cảnh vùng biên giới phía Bắc Tổ quốc hùng vĩ,
hiểm trở, thể hiện lòng tự tôn dân tộc và những suy ngẫm sâu xa về lịch sử. Bài
thơ chữ Hán rất hàm súc này hiện có nhiều bản dịch. Bài viết căn cứ theo văn
bản dịch của Quách Tấn. Sáng tác này ra đời vào năm 1804, dưới thời nhà Nguyễn,
bấy giờ Nguyễn Du được cử đi làm Chánh sứ. Trên đường sang Trung Quốc, đi qua
ải Chi Lăng ông đã cảm tác mà làm bài thơ này.
Quỷ Môn
quan là địa danh ở phía nam xã Mai Sao, huyện Chi Lăng, tỉnh
Lạng Sơn. Nơi đây đường đi hẹp, núi đá hiểm trở, sông sâu khí độc, có núi hình
như đầu quỷ nên người trong vùng gọi như vậy. Đây là địa danh nổi tiếng trong
lịch sử Việt Nam bởi những chiến tích vẻ vang của nước ta đồng nghĩa với sự
thảm bại của đối phương. Đến với Quỷ Môn quan, thi sĩ xúc động trước một vùng
phên dậu của Tổ quốc đã từng vùi chôn biết bao thây giặc ngoại bang dưới các
triều Tống, Nguyên, Minh và Thanh. Ngắm cảnh quan thiên nhiên núi non hoang sơ,
thi sĩ nhận thức sâu sắc vị trí hiểm yếu nơi địa đầu Tổ quốc và ý nghĩa lịch sử
thiêng liêng của vùng đất oanh liệt này. Thi phẩm viết theo thể thất ngôn bát
cú Đường luật trang nghiêm, mở ra một nguồn cảm xúc rất mới lạ trong thơ Nguyễn
Du.
Hai câu
phần đề tái hiện cảnh núi
tiếp núi trùng điệp, nối nhau thành từng dãy, đỉnh cao ngất chạm
tầng mây: "Núi trập trùng giăng đỉnh vút mây,/ Ải chia Nam Bắc chính là
đây”. Nơi núi non hiểm yếu này là địa giới phân chia Nam - Bắc rõ ràng giữa
hai quốc gia Việt - Trung. Từ gần nghìn năm trước, thi nhân Lý Thường Kiệt cũng
đã khẳng định địa giới giữa hai nước: "Tiệt nhiên định phận tại
thiên thư" (Rành rảnh định phận ở sách trời). Sự phân định
ấy rõ ràng như một chân lý không ai có thể phủ nhận.
Hai
câu phần thực miêu tả cụ thể đặc điểm vùng đất này: "Tử sanh tiếng
đã vang đồng chợ,/ Qua lại người không ngớt tháng ngày". Địa danh
hoang sơ này là nơi có nhiều khách đi
lại song nổi tiếng là nguy hiểm, đe dọa sự sống chết của con người. Tác giả
dùng từ "tử địa"- đất chết - nói về quan ải này thật cô đọng, xác đáng, gợi
người đọc nhớ tới thơ cổ có câu: “Quỷ Môn quan! Quỷ Môn quan! Thập
nhân khứ, nhất nhân hoàn”. Các bậc tiền nhân đi sứ Trung Quốc có người
đã viết: “Rạng ngày đến Quỷ Môn quan, Tiếng xưa thập khứ nhất hoàn là
đây” . Mười người đi qua vùng
tử địa này nhưng chỉ có một người trở về, điều đó quả là tàn khốc. Vốn
là người "sẵn mối thương tâm",
Nguyễn Du không nén nổi niềm thương cảm xót xa trước thực trạng bao nhiêu
người vô tội vẫn phải đi - về qua lại nơi quan ải đầy đe dọa này.
Phần luận của bài: "Thấp
thoáng quỉ đầu nương bóng khói,/ Rập rình cọp rắn núp rừng cây". Nơi
quan ải này tử khí bao trùm không gian, những bụi gai lấp đầy đường, rắn rết và
thú dữ ẩn nấp trong đó thật khó ai có thể lường trước, quỷ thần cũng mặc sức tụ họp nơi
hoang vu này. Phần thơ nói rõ nhiều mối hiểm nguy tiềm ẩn, cứ rập rình lơ lửng chỉ chực chờ lấy đi mạng sống của con người.
Phần hợp là hai câu thơ cuối bài
nguyên tác là: “Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt,/ Kỳ ông hà thủ Hán tướng quân”. Dịch thơ "Bên đường gió lạnh luồng
xương trắng,/ Hán tướng công gì kể bấy nay?". Bản dịch đã
cố gắng song vẫn chưa lột tả hết ý, thơ trong nguyên tác có ý nghĩa tổng hợp
cao hơn, khái quát lại toàn bài: từ thuở
xưa đến giờ, gió lạnh đã thổi đống xương trắng của biết bao nhiêu người đã nằm
lại nơi này. Chiến công của viên tướng người Hán sang đất này có gì đáng khen
đâu? Ẩn sâu lắng qua từng câu chữ là tấm
lòng cảm thương của nhà thơ trước những
phận người xấu số, phải bỏ nắm xương tàn nơi đất khách quê người, mặc cho gió lạnh thổi qua vô tình vô cảm. Bởi họ chính
là vật hy sinh cho những giấc mộng bá quyền của các vương triều phương Bắc.
Chiến tích của những viên tướng người Hán chẳng qua cũng chỉ là "giãi thây trăm họ làm công một
người" mà nhiều khi còn thảm
bại, vậy nên chẳng có gì đáng kể.
Toàn bài
"Quỷ Môn Quan" đã tái hiện cảnh quan hùng vĩ, hiểm trở của
một vùng quan ải phía Bắc của Tổ quốc, gợi lại tàn dư chết chóc còn bao quanh
nơi đã diễn ra những trận chiến oanh liệt xưa. Giá trị nhân văn trong thi phẩm
ẩn chứa lắng đọng qua những suy ngẫm sâu sắc về lịch sử, về con người bởi tác
giả là người có“con mắt nhìn thấu sáu
cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”(Chu Mạnh Trinh).
Thạc sĩ Nguyễn Thiện - Thạch Thất