Lê Quý Đôn,
Nhà văn hoá lớn của Việt Nam thời Hậu Lê, thuở
nhỏ có tên là Lê Danh Phương, tự Đoãn Hậu, hiệu Quế Đường. Quê thôn Duyên Hà,
huyện Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. Năm 1743 ông đỗ Giải nguyên, năm 1752 đỗ Bảng
Nhãn. Được bổ là Hàn lâm thị độc, Tư nghiệp Quốc Tử giám. Năm 1760 làm Phó sứ
đi Trung Quốc, sau khi về được phong tước Dĩnh Thành Bá rồi thăng Hàn lâm viện
thừa chỉ, Đốc đồng Hải Dương. Sau chuyển về kinh làm Tổng tài Quốc sử quán. Năm
1773 làm Phó đô ngự sử, rồi thăng Hữu thị lang bộ Công, Bồi tụng. Năm 1776 được
cử làm Tham thị Tham tán quân cơ các đạo Thuận Hoá, Quảng Nam. Sau đó về Thăng
Long làm Hành Tham tụng tước Dĩnh Thành Hầu.
Ông mất ngày 2.6.1784, thọ 68 tuổi.
Sau khi mất được truy tặng Thượng thư bộ Công, tước Dĩnh Thành Công. Lê Quý Đôn
là một học giả uyên bác. Ông để lại nhiều tác phẩm có giá trị về các bộ môn lịch
sử, địa lý, văn học, ngôn ngữ học, triết học v.v…
ĐỘ XƯƠNG GIANG
Nguyên
tác : 渡 昌 江
天 古 關 河 係 要 衝
行 春 憑 眺 問 東 風
煙 晴 绿 野 新 畬 長
霜 冷 荒 園 舊 壘 空
帯 礪 存 開 國 遠 烈
旂 常 近 紀 静 氛 功
神 京 咫 尺 頻 回 望
萬 里 祥 雲 一 朵 紅
Phiên âm : Độ Xương Giang[1]
Thiên
cổ quan hà hệ yếu xung,
Hành xuân bằng diểu vấn đông phong.
Yên
tình lục dã tân dư trưởng,
Sương lãnh hoang viên cựu luỹ không.
Đới
lệ[2]
viễn tồn khai quốc liệt,
Kỳ
thường[3]
cận kỷ tĩnh phân công.
Thần
kinh chỉ xích tần hồi vọng,
Vạn
lý tường vân nhất đoá hồng
Dịch thơ :
Qua sông Xương Giang
Sông,
ải từ xưa vốn hiểm nguy,
Gió
đông theo nhẹ bước xuân đi.
Khói
tan đồng đất màu xanh thắm,
Sương
lạnh, vườn hoang, luỹ cũ suy.
Dựng
nước hiển vinh còn mãi mãi,
Công
lao ghi dấu ấn quân kỳ.
Kinh thành trông ngóng trong
gang tấc,
Rực
ánh mây hồng ta bước đi.
Dịch 2007- Cố Nhà giáo Phạm Đình Nhân