THÔNG BÁO

CHUC MUNG NAM MOI.jpg Chào mừng Năm mới 2024- Giáp Thìn 
Năm  2023  đã khép lại với bao thay đổi. Đất nước  ta cũng như toàn thế giới. và bản thân mỗi hội viên chúng ta cũng không ngoại lê. Một năm chúng ta đã chứng kiến với bao đổi thay đên chóng mặt. Theo thời gian mọi điều vất vả , cả những đau thương mất mát cũng  lùi dần về quá khứ
Đến với cuốn "THƠ ĐƯỜNG HÀ NỘI - VI", 2014.
19-12-2014
Cot co ( Bia).jpg Bìa tập thơ

Cứ đến hẹn lại lên, mỗi năm CLB thơ Đường Hà Nội của chúng ta lại cho ra mắt một tập thơ với những chủ đề rất phong phú. Tập thơ thứ 6 của CLB phản ánh tương đối đầy đủ các sự kiện quan trọng của năm 2014.

    Là thơ Đường Hà Nội, nên chủ đề đầu tiên cần bàn là thành phố vì hòa bình, ngàn năm văn hiến, nhất là năm nay chúng ta kỉ niệm lần thứ 60 ngày giải phóng thủ đô. Xin nêu ra đây một số bài thơ ca ngợi truyền thống hào hùng, danh lam thắng cảnh, nét thanh lịch đầy trí tuệ của người Tràng An, như "Thăng Long thành" của Phí Đình Trụ (p. 37), "Thăng Long nhân kiệt" của Dương Xuân Tấn (p.421), "Thăm Văn miếu" của Nguyễn Chí Công (p.44), "Thắng cảnh hồ Hoàn Kiếm" của Nguyễn Đình Sơn (p.610), "Thoáng gợn Tây hồ" của Hà Đình Chung (p.38)...

Đặc biệt, nhiều nhà thơ đã viết về Xứ Đoài với núi Tản, chùa Thầy, Tây Phương, Suối Ngà... Dưới ngòi bút của thi sĩ, trăng sao, cây cỏ cũng có hồn:

"Bát ngát rừng cây cơn gió hát

Mênh mang ngọn sóng mảnh trăng cười"

(Bài "Cảnh đẹp Xứ Đoài" của Xuân Hồng, p.5).

      Đương nhiên, Hà Nội là trái tim của Tổ quốc thân yêu, nên không thể thiếu những bài ca ngợi quê hương đất nước, truyền thống quật cường, thưởng thức cảnh đẹp khắp mọi miền đất nước, từ Cao Bằng, Điện Biên, Tam Đảo, đến Huế, Đà Lạt, Đèo Ngang, Phú Quốc, v.v.

       Đứng trước phong cảnh thơ mộng, tâm hồn thi sĩ ngây ngất, hòa quyện mình vào vạn vật thiên nhiên, gửi nỗi lòng mình theo sóng gió, như bài "Du xuân" của Đặng Phụ (p. 36), hay bài "Sang thu" của Xinh Xinh (p.516):

"Sông thương con nước triều dâng vợi

Biển nhớ thân tàu lặng sóng khơi".

      Nhiều thi huynh, thi hữu đã viết những vần thơ cháy bỏng nói lên lòng yêu nước và tình cảm đối với hải đảo, đối với các chiến sĩ ngày đêm canh giữ biển trời quê hương. Cô hàng xóm coi người ra đảo xa là ra tiền tuyến:

"Được tin lính đảo sắp lên đường

Cô gái bên nhà thoáng vấn vương". ("Vấn vương" của Trương Mai, p.17).

      Đúng là tình cảm của người hậu phương đối với tiền tuyến:

"Em nối tin yêu vào biển nhớ

Cùng anh giữ mãi chủ quyền ta"

("Gửi xuân đến Trường Sa" của Đỗ Thị Hòa, p. 10).

        Một chủ đề lớn của tập thơ là tiếc thương Đại tướng Võ Nguyên Giáp, gắn liền công lao của Đại tướng với chiến tích của dân tộc ta đã đánh thắng những tên đế quốc xâm lược to, đặc biệt là trận Điện Biên Phủ, mà năm 2014 kỉ niệm 60 năm chiến thắng lịch sử này. Xin nêu ra một vài bài làm ví dụ: "Đại tướng trong lòng dân" của Kiều Bích Liên (p.92), "Suy tôn Đại tướng Võ Nguyên Giáp" của Lê Văn Mai (p.151), "Tiếc thương" của Nguyễn Văn Cạnh (p.469), "Chiến thắng Điện Biên Phủ" của Chương Phú (p.419), "60 năm chiến thắng Điên Biên" của Trịnh Thu Loan (p.246)...

       Đại tướng Võ Nguyên Giáp là một trong những học trò xuất sắc nhất của Bác Hồ. Đại tướng đã từng nói, nếu không có Chủ tịch Hồ Chí Minh thì không có Võ Nguyên Giáp. Trong "Thơ Đường Hà Nội VI" có nhiều bài ca ngợi Hồ Chủ tịch, học tập đạo đức Hồ Chí Minh, như "Bác Hồ" của Nguyễn Văn Tâm (p.612), "Sáng mãi tên Người Hồ Chí Minh" của Lê Thị Hảo Yến (p.465), "Đêm Nguyên Tiêu nhớ Bác" cuả Thạch Văn Long (p.126)...

        Nhân dân và lịch sử đã tôn vinh Bác Hồ là người cha, Đại tướng là anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm nay chúng ta kỉ niệm 70 năm thành lập đội quân anh hùng đó. Trong số các vị ngồi đây, nhiều người là cựu chiến binh, là bộ đội Cụ Hồ, nên đề tài này đã được các nhà thơ khai thác, như "Một thuở Trường Sơn" của Nguyễn Xuân Đồng (p.26), "Nhớ đồng đội" của Quang Sáng (p.21)...

Nhiều thi huynh, thi hữu đã chọn chủ đề hướng về cội nguồn, về Đất Tổ, tri ân các anh hùng dân tộc đã có công dựng nước và giữ nước, như "Hùng Sơn linh địa" của Hồ Văn Thiện (P.37), "Truyền thống" của Phương Nga (p.94)...

Sắp tới, sang năm 2015 cả nước ta sẽ long trọng kỉ niệm 250 năm ngày sinh của đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới (1765-2015). Trong "Thơ Đường Hà Nội - VI" đã có những bài vịnh Kiều, khoán thủ câu Kiều, như "Kiếp hồng nhan", "Nỗi đoạn trường" của Nguyễn Bá Chính, tiếc thương cho thân phận nàng Kiều:

"Cho duyên lỡ dở thêm chua xót

Để phận long đong mãi tủi sầu" (p. 472).

               Đa số hội viên Câu lạc bộ thơ Đường Hà Nội là người cao tuổi, ngoài những bài viết về tuổi già sống vui, khỏe, có ích, vẫn có nhiều vần thơ tươi trẻ, tràn trề yêu đời, thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Các cụ cũng "Vấn vương" (Trần Quỳnh Khương, p.412), cũng "Tương tư" (Nguyễn Văn Gối, p. 482); tình yêu vẫn cháy bỏng, vẫn ga lăng, lãng mạn, mơ mộng, hào hoa, biết cách bày tỏ nỗi lòng rất kín đáo, tế nhị. Hãy đọc "Gửi người tình Kinh Bắc" của Nguyễn Văn Thụ (p.162). Mối tình duyên trong truyền thuyết cũng được nhắc đến với "Mưa ngâu" của Hà Vọng (p.163) và "Ngân hà" của Trần Thế Hào (p.18).

            Tình yêu luôn gắn liền với gia đình, tế bào của xã hội, gắn liền với người phụ nữ. Đã có những bài ca ngợi người mẹ, người vợ, người chị, người em, như bài "Tình mẹ" của Nguyễn Đình Nụ (p. 41). Với tư tưởng trọng nam khinh nữ còn khá phổ biến trong xã hội, Lý Lan Phương đã viết những câu thơ rất đời thường nhưng lại dí dỏm trong bài "Nhà có hai con gái" (p.254):

"Chấy rận hai cô con gái rượu

Rể thi nhau nịnh đến là vui".

                  Tóm lại, toàn bộ tập "Thơ Đường Hà Nội-VI" toát lên tính nhân văn sâu sắc, từ lòng yêu nước nồng nàn, quyết tâm bảo vệ biển trời quê hương, ca ngợi lịch sử hào hùng của dân tộc, kính yêu lãnh tụ, các anh hùng dân tộc, tình yêu thiên nhiên, tình yêu lứa đôi, yêu đời, đến những câu chuyện rất đời thường, như "Hút thuốc lào" của Nguyễn Duy Cách (p.266), "Tâm sự cái răng đau" của Lê Tuyển (p.220). Rất đời thường và cũng rất thâm thúy.

Thơ Đường là sâu sắc, nhiều khi thâm thúy, mượn cảnh để nói về đời, lên án những thói hư tật xấu, tiêu cực trong xã hội, ca ngợi đức tính trung thực, bảo vệ thuần phong mỹ tục, phẩm chất trong sáng, cao đẹp của người Hà Nội, của người Việt Nam. Ta hãy xem một vài ví dụ: "Vịnh cây thông" của Lý Trần Thuần (p.630), Vịnh bút, Vịnh mèo, Vịnh muỗi của Phạm Xuân Lăng (p.189), "Thay ngôi" của Trần Văn Tráng (p.160), "Vua đi cày" của  Nguyễn Vũ Trọng (p.217) và nhiều bài khác.

               Trong tập VI cũng có nhiều bài thơ họa: Tự họa, họa thơ của nhau, họa thơ các thi hào nổi tiếng, như Nguyễn Khuyến, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan...

                 Chúng ta thấy có nhiều kiểu chơi thơ trong cuốn sách này, như độc vận, thủ vĩ ngâm, khoán thủ, khoán tâm, trường cú..., những thú chơi đầy trí tuệ, có thể nói là bác học, như thuận nghịch độc, đặc biệt thơ ngũ độ thanh chỉ có thể áp dụng trong tiếng Việt, vì tiếng Việt có 6 thanh, còn tiếng Trung chỉ có 4 thanh. Nhưng, để sáng tác một bài thơ ngũ độ thanh hay thuận nghịch độc cần phải tư duy chu đáo, không thể dễ dãi, không vì ép luật chơi mà bỏ qua nội dung và nghệ thuật. Có như vậy mới dám nói đến "trí tuệ" hay "bác học", tránh cho bài thơ thiếu tính logic, lủng củng, có những câu thơ tối nghĩa hoặc vô nghĩa.

                  Trong tập thơ có khá nhiều bài tứ tuyệt nhị thủ, có cả đa thủ. Điều cần bàn, có khi phải tranh luận để cho thơ của chúng ta được hoàn chỉnh hơn:

- Nếu tứ tuyệt đa thủ không liên hoàn có được coi là thơ luật Đường không? Các chuyên gia cho rằng, thơ tứ tuyệt đa thủ không liên hoàn thì dù có đúng niêm luật, cũng không phải là thơ luật Đường, mà là thơ mới, bắt đầu thịnh hành từ thời tiền chiến cho đến nay, với những nhà sáng tác thơ mới tiêu biểu như Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử và cả Tố Hữu, v.v.

                   Đương nhiên, một cuốn sách gần 650 trang với hàng trăm tác giả khác nhau, không thể không có những khiếm khuyết, cần rút kinh nghiệm. Nhiều bài thơ còn chung chung, hình thức, chưa sâu sắc, tính nghệ thuật chưa cao. Điều dễ nhận thấy là, nhiều cặp thực và luận chưa đối nhau, hoặc đối nhau không hoàn chỉnh, chỉ đối được nửa câu, có cặp không đối ý, phổ biến nhất là không đối từ, có bài không đối cả ý và từ.

                   Chúng ta tin tưởng rằng, những năm sau, Câu lạc bộ sẽ cho ra mắt các tập thơ hay hơn, chất lượng hơn, tính nhân văn sâu sắc hơn, tính nghệ thuật cao hơn, xứng đáng là Câu lạc bộ thơ Đường của thủ đô ngàn năm văn hiến.

                                                            Xin chân thành cám ơn!

                                                                    Đinh Nho Hồng . PCN CLB

 

Tác giả