VỊNH
NGUYỄN TRÃI
Bài 1
- TỤ NGHĨA
Nam quan hận ẩm,
xuất Lam sơn,
Quân
tính, thần danh diệp sấm tường.
Tân
đảm, thập niên tì hổ dã,
Lôi
phong, tái cổ ngạc kình thương.
Vi kinh cầm tặc hồi thiên kiếp,
Huy bút khuynh thành chấn tứ phương
Thắng
bại lệ giai tài đức ngộ,
Can kỳ hà đại
lập minh vương.
TRẦN THẾ HÀO
Dịch thơ:
Nam quan còn hận, tụ Lam sơn,
Sấm lá truyền tin nghẽn suối nguồn.
Gai mật mười năm lên gấu hổ,
Giáo gươm dăm trận sạch dê chồn.
Thảo mươi hàng chữ, nghiêng thành lũy,
Tha vạn kiếp tù thoát thảm thương.
Thắng bại đều khen tài sánh đức,
Đời nào, cờ trúc lập ngôi vương
Tác giả dịch
Dịch nghĩa:
BÀI 1 –
TỤ NGHĨA
Nuốt mối
hận Nam
quan, Ông đến Lam sơn,
Lời sấm
trên lá cây ghi rõ họ tên quân thần.
Mười năm
nằm gai nếm mật, tôi luyện nghĩa quân mạnh như
hổ báo,
Sấm vang
gió cuốn, sau hồi trống trận giết sạch lũ cá kình cá sấu.
Vây kinh
thành, tha mạng cho hàng nghìn tên giặc bị giam hãm,
Khua ngọn
bút, nghiêng thành quách, chấn động muôn nơi,
Người thắng,
kẻ thua đều biết tài, đức của Ông,
Có thời
nào, lấy cành trúc làm cờ mà thành nghiệp Đế Vương.
VỊNH NGUYỄN TRÃI
Bài 2 -THẢM ÁN
Lệ
chi viên án chấn thanh khung,
Hà cố trượng phu ngộ khốn cùng.
Hoàn kiếm, triều thần sinh ngạ hổ,
Tàng cung, liệp hộ chử điền ưng.
Vĩ nhân phương cảo cuồng phong tản,
Nguyễn tộc phần hương phẫn hỏa xung,
Tích sự động tâm dao nghiễn mặc,
Luận đàm khởi bút mạc danh xưng.
TRẦN THẾ HÀO
Dịch thơ:
Án Lệ chi viên máu đỏ tràn,
Trượng phu chịu tiếng, gánh điều oan.
Lộng thần tham chức sinh hùm đói,
Hết thỏ treo cung giết chó săn.
Nhang cúng linh hồn hương lửa bốc,
Sách thơm sự nghiệp khói tro tàn.
Việc xưa bứt dứt, chao nghiên mực,
Mòn bút, cạn dầu chẳng nổi trang.
Tác giả dịch
Dịch nghĩa:
Bài 2 - THẢM ÁN
Vụ án Lệ chi viên động cả trời xanh,
Vì sao bậc Trượng phu lại bị nỗi cùng cực.
Khi yên bình, đã trả kiếm, đám bề tôi đẻ ra mấy con
hổ đói,
Lúc hết chim, cất cung tên, lũ thợ nấu cả chim ưng
săn mồi.
Gió bão cuốn bay giấy sách của bậc vĩ nhân,
Hương thắp của họ Nguyễn bốc lên thành lửa ,
Việcxưa khiến động lòng, chao nghiên mực,
Giở giấy bút viết bài, nhưng không biết nói thế nào.
VỊNH
NGUYỄN TRÃI
Bài 3: DANH NHÂN.
Xuân vi độc
quyển điểm phê hồng,
Đích thị thiền
quan ngữ
cổ chung.
Thiên tải hùng văn phi ngẫu tác,
Nhất kỳ công thuật hãn tương phùng.
Ba chu bạch thủ ưu phù trạo,
Biến sự đan tâm dục biểu trung.
Bán dạ, Khuê tinh dao mặc khách,
Hàn sương, từ chẩm, đối tiền song.
TRẦN THẾ HÀO
Dịch
thơ:
Chấm
văn đối sách điểm phê hồng,
Lại
chính Quan chùa tiếng tựa chuông.
Nhấp
bút thành văn đâu kẻ sánh,
Bày cờ chấp nước dễ ai cùng.
Sóng
xô, lo lái thuyền về bến,
Triều
biến, tỏ lòng chí tận trung.
Lấp lánh sao Khuê, lay thức giấc,
Sương mờ, rời gối tựa bên song.
Tác giả dịch
Dịch nghĩa:
Bài 3 – DANH NHÂN
Chấm bài văn thi đình, phê nhiều
điểm đỏ (1)
,
Đúng là Quan chùa (2) có tiếng nói như chuông.
Bản hùng văn, nghìn năm, không có
bài sánh,
Cách tấn công trong ván cờ, ít người
được như thế.
Thuyền gặp sóng, trắng tay lo lắng
cho chèo lái,
Nước gặp biến, muốn bày tỏ tấm lòng
trung.
Nửa đêm, sao khuê lấp lánh, có ai
trằn trọc,
Sương lạnh, rời gối, ngồi trước song
cửa sổ.
(1) Bia Văn miếu ghi lại:
Kỳ Thi đình mùa xuân Mậu
Tuất 1442,
Ông là 1 trong 4 quan Đọc quyển chấm bài.
(2) Đang giữ chức Hàn
lâm viện Thừa chỉ học sĩ,
kiêm Trung thư Quốc sử sự, kiêm Gián nghị,
kiêm Hành
khiển lục đạo, Ông kiêm luôn chức Đề cử,
trông chùa Tư Phúc của Hoàng tộc ở Côn
Sơn để tránh xa Triều đình.