LÍNH CHIẾN
Làm anh
lính chiến bao lần hả
Gắn bó
tình người ai cũng nhã
Họng
súng vừa ngừng nảy đoạn thơ
Nguồn
khe vẫn chảy tìm con cá
Về vùng
đất mới bạn nhanh quen
Đến chốn
rừng sâu dân chậm lạ
Sống
chết kề mình vẫn lạc quan
Ca vui
tán chuyện cười giòn giã.
YÊU THƠ
(Ngũ độ thanh)
Lẻ sáu
mươi đời sõi học thơ
Tiềm
năng rực rỡ tuổi đâu ngờ
Đường
thi ấp ủ luôn dàn sợi
Lục bát
trau dồi vẫn nhả tơ
Chỉnh ý
từng đêm tròn chữ
đợi
Rèn niêm
mỗi sáng tỏ câu chờ
Thuyền
quyên lướt nhẹ êm dòng chảy
Rắc
những thanh vần bạn ngẩn ngơ.
THƠ
ĐƯỜNG
(Bát láy - láy vần)
Âm
vần BÁT NGÁT gợi ngàn thương
QUYẾN
LUYẾN lòng nhau dạ tỏ tường
THÁNH
THÓT gieo từ người vẫn mộng
ÊM
ĐỀM dõi ý kẻ còn vương
Tình
sâu MÃI MÃI tô dòng đỏ
Nghĩa
nặng LUÔN LUÔN khắc chữ hường
Bạn
hữu UNG DUNG lời xướng họa
Lan
truyền VỜI VỢI tỏa muôn phương.
THĂM K9*
(Thủ vỹ ngâm)
Bác vẫn nơi đây tự thủa
nào
Mây trời vẳng lại điệu ca
dao
Xôn
xao dãy sỏi vờn theo bước
Lặng lẽ hàng thông vẫy
đón chào
Mắt dõi non ngàn sao phúc
hậu
Hình nhìn đất nước thật
thanh cao
Dừng mơ chợt tỉnh thầm
lưu luyến
Bác vẫn nơi đây tự thủa
nào.
* K9:
Nằm ẩn mình trong rừng cây rậm rạp, từng là căn cứ địa của Trung ương và Hồ Chủ
Tịch thuộc địa phận Đá Chông (Ba Vì, tỉnh Hà Tây cũ nay thuộc thành phố Hà Nội)
cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 70km.
BÁC GIÁP
(Thủ vĩ ngâm )
Vị Tướng lừng danh rực
ánh hồng
Đời đời Tổ quốc mãi ghi
công
Dâng bầu nhiệt huyết vì
dân, Đảng
Nối gót anh hào của tổ
tông
An ngự thanh nhàn nơi đảo
nhỏ*
Vinh quy hạnh phúc chốn
mây
bồng
Tài
hoa đức độ năm châu kính
Vị Tướng lừng danh rực
ánh hồng.
*Đảo
Ngọc, Quảng Bình
TẢN ĐÀ (*)
(Thủ
vĩ ngâm)
Khắc Hiếu lừng danh hiệu
Tản Đà
Thăng trầm buổi ấy dậy
lòng ta
Lời thơ mãi vọng hồn sông
núi
Giọng phú hoài rung nghĩa
nước nhà
Thánh thót cung vần say
biển lạ
Êm đềm nốt nhạc đắm rừng
xa
Từng câu mỗi ý đời lưu
giữ
Khắc Hiếu lừng danh hiệu
Tản Đà.
VĂN MIẾU QUỐC TỬ GIÁM
(Ngũ độ thanh)
Nghiêng
mình cảm phục xứ rồng bay
Những
vị tiền nhân ở chốn này
Tiến
sĩ danh ngời ghi bảng
trọng
Anh
hùng nghĩa rạng khắc đường
ngay
Tràn
ra đất rộng tâm hồn
mở
Gửi
đến trời cao đạo nghĩa
bày
Vĩnh
cửu đời khen bừng nước Việt
Tô
hồng sử sách tự hào thay.
HỒ HOÀN KIẾM
Sáng sử Hồ Gươm trải dặm
trường
Ngàn đời gắn bó cảnh thân
thương
Tháp Rùa bóng hiện nơi
gầm bãi
Đền Ngọc* hình soi chốn
mặt đường
Thả dáng Đài Nghiên nhìn
bốn cõi
Khoe mình Thủy Tạ dõi
mười phương
Đây cầu Thê Húc cong liền
nhịp
Khắc trọn tình yêu dãy
phố phường.
* Đền Ngọc
Sơn
CHIÊNG DỒN XÓM BẢN REO MỪNG TẾT
TRỐNG GIỤC SÂN ĐÌNH GỌI ĐÓN XUÂN
(Tung
hoành trục khoán)
CHIÊNG gióng từng hồi lễ hội dân
DỒN sang núi bạn kết thêm gần
XÓM trên kiệu thánh che hình phượng
BẢN dưới đèn lồng rọi bóng lân
REO
khắp rừng hoang bài hát lượn*
MỪNG
muôn ngõ vắng điệu văn thần
TẾT
về nhộn nhịp lòng nao nức
TRỐNG
GIỤC SÂN ĐÌNH GỌI ĐÓN XUÂN
* Hát lượn là một làn điệu dân ca của
người Tày
TRĂNG
KHUYẾT (*)
(Ngũ độ thanh)
Lỡ
để trong lòng khuyết một nơi
Thầm
mang uẩn khúc chuyện riêng đời
U
sầu tỏa nét ngời khuôn mặt
Yểu
điệu nghiêng hình sáng rãnh môi
Núi
vẫy đưa tình đâu cảm nhận
Rừng
theo gợi nghĩa chẳng lay rời
Tầng
không lúc tỏ khi mờ nhạt
Ngóng
bởi ai chờ hỡi nguyệt ơi.
(*) Vầng trăng khuyết được ví như một người con gái đẹp kiêu sa,
mang trong lòng một mối tình lỡ dở. Buồn nhưng không hận, vẫn thủy chung son
sắt, yêu đời. Nàng âm thầm tỏa sáng mang lại cho đời nét đẹp mê hồn, những niềm
vui, nỗi nhớ vô bờ bến. Hỏi ai ngắm nhìn vầng trăng khyết trong một đêm thu mà
không rung động đến tâm hồn?
ĐỢI
(Toán
thi )
Chia tay đã trọn SÁU năm rồi
BẢY hẹn ba chờ cũng cuốn trôi
Dạ tẻ âm thầm NGÀN sợi đắp
Tim đơn quạnh quẽ VẠN cung bồi
Luôn cầu BỐN nụ bừng con mắt
Vẫn ước HAI làn gợi khóe môi
Gió trở đông về TRĂM cõi lạnh
Đèn khuya MỘT ghế bóng ai ngồi.
TÌNH
(Bát điệp)
Giữ vẹn TÌNH yêu vốn muộn màng
Duyên TÌNH đã nở lúc khai trang
Trao TÌNH phận thắm màu hoa đỏ
Gửi
nghĩa TÌNH xuân ánh nhụy vàng
Nguyện
đến TÌNH reo dồn nắng đọng
TÌNH về
mộng khởi giãn mây sang
TÌNH
khơi rạng rỡ lòng thanh thản
Mãi
mãi TÌNH theo quyện bóng nàng.
DUYÊN MÌNH
(Bát vận đồng âm)
Đêm
rằm chẳng rượu cũng không thơ
Dõi
bóng hình trăng thả dáng mờ
Cuối
biển con thuyền treo nỗi nhớ
Giữa
nguồn ngọn sóng đọng niềm mơ
Còn
ghi kiếp trước tình sâu lỡ
Vẫn
khắc đời sau nghĩa nặng chờ
Dấu
đượm duyên lành ai rộng mở
Cho
người thủa ấy mãi vương tơ.
GIÃ BẠN
(Tiệt hạ )
Hội đã
xong rồi vẫn thấy lan ...
Liền
anh bịn rịn hát theo màn ...
Đưa
tình mắt liếc người đang hẹn ...
Gửi
nghĩa tay vời kẻ cũng chan ...
Nón ngỏ
khăn nghiêng vì dạ quyến ...
Thuyền
bơi sóng lặng bởi tim tràn ...
Lần
sau đến hẹn hai mình sẽ ...
Nói
chuyện duyên nồng nguyện mãi đan ...
TỰ BẠCH 2
Dăm điều tự bạch mảnh đời ta
Cựu
lính biên cương nghỉ tuổi già
Dậy sớm quen nhìn trang xã luận
Ngồi chiều thích hưởng giọng dân ca
Vườn lan thả sắc hồn bay rộng
Nét chữ gieo vần gió cuộn xa
Sướng
thọc đùa vui đàn cháu nhỏ
Tình
thân bạn hữu với ly trà.
Lê Thanh Hưởng –
Thi xã Sơn Tây